Thư Viện Tài Liệu Tổng Hợp

TaiLieuTongHop.Com - Kho tài liệu tổng hợp hoàn toàn miễn phí dành cho mọi người

Hãy sử dụng chức năng tìm kiếm bên dưới để tìm tài liệu trước khi post yêu cầu liên diễn đàn!

Loading

VanMau.VN - Thư viện văn mẫu Việt Nam
+ Viết bài mới  + Trả lời bài viết
 
LinkBack Ðiều Chỉnh Xếp Bài
  #1  
Old 04-12-2012, 03:23 PM
Senior Member
 
Tham gia: Apr 2012
Tổng số bài gởi: 8,890
Send a message via Yahoo to die


Bài 2. Các tội xâm phạm tính mạng sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người

Chương 2. CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG SỨC KHOẺ, DANH DỰ VÀ NHÂN PHẨM CỦA CON NGƯỜI

2.1. CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG CON NGƯỜI

2.1.1. Tội giết người (Điều 93)

Văn bản áp dụng:

- Nghị quyết 04/86/HĐTPTANDTC ngày 29/11/1986

- Nghị quyết 01/89/HĐTPTATC ngày 19/04/1989

- Nghị quyết 01/2006/HĐTPTANDTC ngày 12/05/2006

a. Khái niệm

Tội giết người là hành vi cố ý tước đoạt (bỏ) tính mạng của người khác một cách trái pháp luật.

b. Dấu hiệu pháp lý

Khách thể của tội phạm xâm phạm đến quyền sống của con người.

Mặt khách quan của tội phạm được đặc trưng bởi các dấu hiệu sau:

+ Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi tước bỏ tính mạng của người khác một cách trái pháp luật.

* Về hình thức của hành vi khách quan của tội giết người có thể được thực hiện bằng hành động hoặc không hành động.

Dạng hành động giết người mang tính chất phổ biến hơn và được thực hiện bằng hành vi dùng vũ lực như dùng súng, dao, gậy, thuốc độc, sức mạnh về thể chất để bắn chém, đầu độc, đấm đá, bóp cổ.

Dạng không hành động giết người ví dụ như bác sĩ đang khi trực, có một ca cấp cứu, nhưng đã không cấp cứu nạn nhân làm nạn nhân chết.

Ví dụ A đẩy B ra giữa sông sâu, B chấp chới giữa sông, A bỏ về, B chết.

Hành vi phạm tội của A, về hình thức của hành vi có thể là 2 khả năng sau: Nếu ý định tước bỏ tính mạng của B xuất hiện trước khi A đẩy B xuống sông thì hành vi phạm tội của A thực hiện bằng hành động (thuộc trường hợp phạm tội giết người Điều 93), còn nếu ý định tước bỏ tính mạng của B hình thành sau khi đẩy B xuống sông thì hành vi phạm tội của A thực hiện bằng không hành động (A phạm tội cố ý không cứu giúp người khác đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng Điều 102).

* Về tính chất của hành vi khách quan hành vi tước đoạt tính mạng của người khác phải là trái pháp luật, tức là ngoài những trường hợp tước bỏ tính mạng của người khác mà pháp luật cho phép như phòng vệ chính đáng, thi hành hình phạt tử hình, và giết địch trong chiến đấu.

+ Hậu quả của tội phạm nạn nhân chết là dấu hiệu bắt buộc. Như vậy, tôi giết người là tội có cấu thành vật chất, tội phạm hoàn thành khi nạn nhân chết.

+ Giữa hành vi và hậu quả phải có mối quan hệ nhân quả - là một dấu hiệu bắt buộc trong CTTP của tội giết người. Giữa hành vi khách quan và hậu quả được coi là có mối quan hệ nhân quả khi chúng thoả mãn đầy đủ 3 điều kiện:

@ Nạn nhân chết xẩy ra sau khi khi thực hiện hành vi khách quan.

@ Hành vi khách quan trên phải chứa đựng khả năng thực tế làm phát sinh hậu quả nạn nhân chết.

@ Nạn nhân chết hoàn toàn do hành vi khách quan của tội phạm gây ra (nó phản ánh sự hiện thực hoá khả năng làm phát sinh hậu quả).

+ Đối tượng tác động của tội phạm nạn nhân phải là con người còn sống. Con người được tính từ khi bắt đầu sinh ra cho đến khi chết.

Người chết là người mà tim ngừng đập, thần kinh ngừng hoạt động.

Mặt chủ quan của tội phạm lỗi cố ý (có thể là cố ý trực tiếp hoặc cố ý gián tiếp).

Chủ thể của tội phạm là bất kỳ ai từ đủ 14 tuổi trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự.

c. Hình phạt. Tội giết người tại Điều 93 quy định 2 khung hình phạt

Khoản 2: (CTTP cơ bản) Phạt tù từ 7 năm đến 15 năm giết người trong trường hợp thông thường.

Khoản 1: (CTTP tăng nặng) Phạt tù từ 12 năm đến tử hình nếu thuộc một trong các trường hợp sau:

1. Giết nhiều người: Là trường hợp giết từ 2 người trở lên. Để áp dụng tình tiết này chỉ cần xác định ý thức chủ quan của người phạm tội là mong muốn giết từ 2 người trở lên, không phụ thuộc vào số người chết trên thực tế.

2. Giết phụ nữ mà biết là có thai: Trường hợp này phải thoả mãn 2 điều kiện:

Về khách quan nạn nhân là phụ nữ đang mang thai, không kể thai nhi đang ở tháng thứ mấy, để xác định điều kiện này phải dựa trên cơ sở kết luận giám định.

Về ý thức chủ quan của can phạm phải biết được người phụ nữ đó đang mang thai (có thể can phạm tự nhận biết hoặc nghe thông tin qua người khác). Để xác định điều kiện này phải xem xét, đánh giá các tình tiết sau:

@ Mối quan hệ giữa người phạm tội và nạn nhân.

@ Thời điểm thực hiện tội phạm là ban ngày hay ban đêm, mùa đông hay mùa hè.

@ Tình trạng thai nhi đã lớn hay còn nhỏ.

* Chú ý: Nếu nạn nhân đang mang thai là người tình của người phạm tội thì thuộc trường hợp giết người vì động cơ đê hèn. Tình tiết này được hướng dẫn tại Nghị quyết 04/86/HĐTPTATC.

3. Giết trẻ em: Nạn nhân là trẻ em là người dưới 16 tuổi.

4. Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân: Nạn nhân là người đã hoặc sẽ thi hành công vụ thuộc trường hợp giết người vì lý do công vụ của nạn nhân (tức là giết nạn nhân trước hoặc trong hoặc sau khi thi hành công vụ). Giữa công vụ của nạn nhân và việc thực hiện tội phạm giết người có mối liên quan với nhau.

Ví dụ: A là thẩm phán được giao nhiệm vụ xét xử một vụ án hình sự mà B là bị cáo, trong lúc xét xử hoặc sau khi xét xử xong, B cho rằng A xử mình như vậy là quá nặng nên đã giết A.

Đối với trường hợp giết nạn nhân trước hoặc trong khi thi hành công vụ thường nhằm cản trở việc thi hành công vụ của nạn nhân, còn giết nạn nhân sau khi thi hành công vụ thường có động cơ là trả thù nạn nhân.

5. Giết ông bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy, cô giáo của mình: Nạn nhân là ông bà, cha mẹ có thể là ông bà nội ngoại, đẻ hoặc nuôi; bố mẹ đẻ hoặc bố mẹ nuôi (phải được pháp luật thừa nhận).

Nạn nhân là người nuôi dưỡng là người chăm sóc, quản lý giáo dục người phạm tội như vai trò của bố mẹ người phạm tội.

Nạn nhân là thầy giáo, cô giáo của mình là người đã, hoặc đang làm công tác giảng dạy tại cơ sở có chức năng giáo dục, đào tạo dạy nghề được Nhà nước cho phép đã hoặc đang trực tiếp giảng dạy người phạm tội không kể thời gian dài hay ngắn. Đồng thời, việc gây thương tích cho nạn nhân là vì lý do thực hiện nhiệm vụ giáo dục, đào tạo của họ đối với bị cáo. Hay nói cách khác, động cơ của việc phạm tội có phải liên quan đến nhiệm vụ giảng dạy, đào tạo.

6. Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng: Là trường hợp bị cáo phạm 2 tội trong đó có một tội giết người, giữa 2 tội này phải thoả mãn các điều kiện sau:

@ Tội thực hiện trước hoặc sau tội giết người phải là tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng (là loại tội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là trên 7 năm tù).

@ Khoảng cách giữa 2 tội không có sự gián đoạn về mặt thời gian.

@ Giữa 2 tội không có mối liên quan với nhau

Ví dụ: A vừa dùng súng uy hiếp B để lấy tài sản, sau khi lấy được tài sản, A thấy M đi qua vốn có mâu thuẫn sâu sắc trong chuyện làm ăn trong xã hội đen với nhau, A đã dùng súng bắn M chết.

7. Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác: Là trường hợp bị cáo phạm 2 tội trong đó có tội giết người, giữa 2 tội này phải thoả mãn các điều kiện sau:

@ Khoảng cách thời gian giữa 2 tội có thể liên tục có thể ngắt quãng về mặt thời gian.

@ Tội phạm khác có thể là bất kỳ loại tội nào (tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng).

@ Giữa tội giết người và tội phạm khác có mối liên quan với nhau. Việc thực hiện tội phạm khác là động cơ thực hiện tội phạm giết người - nghĩa là can phạm cho rằng nạn nhân sẽ là người cản trở gây khó khăn cho việc thực hiện tội phạm khác nên đã giết nạn nhân để thực hiện tội phạm khác, hoặc nạn nhân sẽ là người tố cáo can phạm về tội đã thực hiện nên đã giết nạn nhân để che giấu tội phạm đã thực hiện.

Ví dụ: A hiếp dâm B xong, A sợ B tố cáo mình nên đã giết chết B ngay sau khi hiếp dâm.

8. Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân: Như lấy tim, gan, thận dù với bất kỳ mục đích nào như để nghiên cứu khoa học hoặc để cứu sống người khác.

9. Thực hiện tội phạm một cách man rợ: Là trường hợp giết người bằng phương pháp nguyên thuỷ gây đau đớn về thể xác và tinh thần cho nạn nhân cũng như thân nhân của nạn nhân trước khi nạn nhân chết như móc mắt, moi gan, xẻo tai, chặt từng bộ phận của nạn nhân cho đến khi nạn nhân chết.

(Nếu hành vi trên thực hiện sau khi nạn nhân chết thì không phải là trường hợp giết người một cách man rợ).

10. Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp: Là trường hợp người phạm tội đã sử dụng khả năng chuyên môn, nghiệp vụ của mình để dễ dàng thực hiện việc giết người và dễ dàng che giấu tội phạm.

Ví dụ: Bác sĩ giết bệnh nhân rồi lập hồ hơ bệnh án là bệnh nhân chết do bệnh hiểm nghèo; người lái đò giả làm đò đắm để giết nạn nhân; thợ điện dùng dây điện dí vào nạn nhân nhưng làm cho mọi người tin rằng nạn nhân bị điện giật chết.

11. Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người: Tình tiết này phải thoả mãn các điều kiện sau:

@ Can phạm phải sử dụng các loại công cụ, phương tiện có khả năng gây ra cái chết cho nhiều người trong cùng một thời gian như dùng súng, mìn, lựu đạn, thuốc độc.

@ Phải đặt trong một hoàn cảnh cụ thể như: nổ súng nơi có đông người, đầu độc thức ăn, đồ uống có nhiều người dùng (thả thuốc độc vào giếng nước).

@ Ý thức chủ quan của người phạm tội chỉ mong muốn giết 1 người. Còn nếu ý thức chủ quan của người phạm tội mong muốn giết chết từ 2 người trở lên thì thuộc trường hợp giết nhiều người. Hậu quả trên thực tế không nhất thiết phải có nhiều người chết.

12. Thuê giết người hoặc giết người thuê: Là trường hợp can phạm không trực tiếp hành động, mà giấu mặt, dùng lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần (hứa gả con gái) để người khác thực hiện hành vi phạm tội giết người.

13. Có tính chất côn đồ: Là trường hợp giết người có tính hung hãn cao, coi thường tính mạng của người khác, giết người vì những nguyên cớ nhỏ nhặt. Đâm đánh người dã man không run tay.

14. Có tổ chức: Là trường hợp có từ 2 người trở lên thực hiện tội phạm giết người có sự bàn bạc, cấu kết chặt chẽ.

15. Tội phạm nguy hiểm: Là trường hợp một người đã bị kết án về tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng do cố ý chưa được xoá án tích; hoặc một người đã tái phạm chưa được xoá án tích mà lại phạm tội giết người.

16. Vì động cơ đê hèn: Là trường hợp giết người có tính ích kỷ cao, phản trắc, bội bạc với những người thân như: giết người để cướp vợ hoặc cướp chồng của nạn nhân; giết người tình đã có thai với mình để trốn tránh trách nhiệm, giết người đã cho vay, mượn tài sản để trốn tránh trả nợ (tức là giết ân nhân của mình).

2.1.2. Tội giết con mới đẻ (Điều 94)

Khách thể, mặt chủ quan của tội phạm giống Điều 93.

Mặt khách quan của tội phạm: Được đặc trưng bởi các dấu hiệu sau:

+ Hành vi khách quan thể hiện dưới hai dạng vứt bỏ con hoặc giết con mới đẻ. Có thể thực hiện bằng hành động hoặc không hành động.

+ Đối tượng tác động nạn nhân là đứa trẻ mới đẻ. Theo hướng dẫn tại NQ 04/86 trẻ mới đẻ là người sinh ra trong vòng 7 ngày.

+ Hậu quả đứa trẻ chết là dấu hiệu bắt buộc -tội phạm có CTTPVC nhưng mang tính đặc thù đó là chỉ coi là có tội nếu đứa trẻ chết, không đặt ra các giai đoạn thực hiện tội phạm. Nếu đứa trẻ bị vứt mà không chết, được người khác cứu thì TNHS không đặt ra cho người mẹ.

+ Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả đứa trẻ chết do hành vi giết hoặc vứt bỏ của người mẹ gây ra.

+ Hoàn cảnh phạm tội thuộc 2 dạng sau:

* Do hoàn cảnh khách quan đặc biệt như đứa trẻ bị dị dạng, hoặc hoàn cảnh cuộc sống của người mẹ đặc biệt khó khăn, bệnh tật.

* Do ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng lạc hậu như do mê tín, sinh con ngoài giá thú hoặc do ngoại tình sợ dư luận chê bai.

Chủ thể của tội phạm: Người mẹ sinh ra đứa trẻ là nạn nhân.

Ví dụ: A sinh con nhưng bà ngoại hoặc cha của đứa trẻ gây sức ép buộc A giết con. Bà ngoại hoặc người cha là người xúi giục vai trò là đồng phạm, A là người thực hành. Nếu bà hoặc cha đứa trẻ trực tiếp giết đứa trẻ thì xử lý theo Điều 93 với tình tiết là giết trẻ em.

2.1.3. Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 95)

Khách thể, mặt chủ quan của tội phạm giống Điều 93.

Chủ thể của tội phạm là bất kỳ ai từ đủ 16 tuổi trở lên, có NLTNHS trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.

Mặt khách quan của tội phạm đặc trưng bởi các dấu hiệu sau:

+ Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi tước bỏ tính mạng của người khác (luôn thực hiện bằng hành động mà biểu hiện cụ thể về tính chất là hành vi dùng vũ lực).

+ Hậu quả nạn nhân chết là dấu hiệu bắt buộc (chỉ cấu thành tội phạm khi có hậu quả nạn nhân chết xẩy ra trên thực tế).

+ Hoàn cảnh phạm tội người phạm tội ở trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc đối với người thân thích của người phạm tội.

Người thân thích của người phạm tội có thể là người có quan hệ huyết thống gần gũi với người phạm tội, hoặc bạn bè thân thiết, thầy cô giáo của người phạm tội.

Để xác định trạng thái tinh thần của người phạm tội phải căn cứ vào 2 điều kiện sau:

(@ Phải có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân là nguyên nhân Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân bao hàm cả hành vi trái đạo đức có thể cấu thành tội phạm có thể không nhưng phải có tính chất nghiêm trọng

@ Từ hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân là nguyên nhân phát sinh hậu quả làm cho trạng thái tinh thần của người phạm tội bị kích động mạnh (là trường hợp người phạm tội không kiềm chế, không làm chủ được hành vi của mình). Để đánh giá về trạng thái tinh thần của bị cáo hiện nay có 2 quan điểm khác nhau về vấn đề này:

Một là: Phải căn cứ vào kết quả giám định về trạng thái tinh thần của bị cáo tại thời điểm thực hiện tội phạm. Quan điểm này chưa có tính khả thi vì trình độ y học của chúng ta hiện nay chưa cao nên kết quả giám định về trạng thái tinh thần không chính xác; hơn nữa trạng thái tinh thần của bị cáo tại thời điểm thực hiện tội phạm khác với trạng thái tinh thần tại thời điểm giám định.

Hai là: Phải xem xét một cách toàn diện tính chất của hành vi trái pháp luật của nạn nhân, mối quan hệ giữa nạn nhân - người phạm tội, nhân thân người phạm tội, hoàn cảnh, thời điểm, sự việc xảy ra... Đây là quan điểm được áp dụng trên thực tế.

2.1.4. Tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 96)

Khách thể, mặt chủ quan của tội phạm giống Điều 93.

Chủ thể của tội phạm là người từ đủ 16 tuổi trở lên, thực hiện hành vi phòng vệ.

Mặt khách quan của tội phạm được đặc trưng bởi các dấu hiệu sau:

+ Hoàn cảnh phạm tội nạn nhân có hành vi tấn công đang hiện tại.

+ Hành vi khách quan là hành vi tước bỏ tính mạng của người khác do việc thực hiện hành vi phòng vệ để chống trả lại người đang có hành vi tấn công nhưng vượt quá giới hạn cần thiết (tức là hành vi chống trả không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi xâm hại).

+ Hậu quả nạn nhân chết là dấu hiệu bắt buộc.

* Động cơ phạm tội trong mặt chủ quan là nhằm ngăn chặn, đẩy lùi hành vi tấn công, hạn chế thiệt hại của hành vi tấn công có thể gây ra.

Ví dụ 1: A xúc phạm B bằng cách chửi bới, nhiếc móc, làm nhục B ở nơi đông người. B cầm dao đâm chết A trong trạng thái tâm lý căng thẳng, bức xúc, không kiềm chế được. A phạm vào Điều 95

Ví dụ 2: B đi học về tới nhà thì nghe tin mọi người báo là mẹ của B đã bị A đâm chết ở ngoài rẫy, B lấy dao chạy sang nhà A tìm A, đâm chết A. A phạm tội thuộc Điều 95.

Chú ý: Điều 95 và Điều 96 khác nhau cơ bản ở hoàn cảnh phạm tội.

Đối với Điều 95, hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân có thể là hành vi tấn công nhưng hành vi tấn công phải đã kết thúc; hoặc là hành vi vi phạm pháp luật khác (không phải là hành vi tấn công) có thể ở bất kỳ thời điểm nào.

Đối với Điều 96 nạn nhân cũng có hành vi trái pháp luật nhưng chỉ là hành vi tấn công và phải đang hiện tại.

2.1.5. Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ (Điều 97)

Khách thể của tội phạm xâm phạm tính mạng con người.

Chủ thể của tội phạm là người đang thi hành công vụ.

Lỗi có thể là lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý.

Mặt khách quan của tội phạm được đặc trưng bởi các dấu hiệu sau:

+ Hành vi khách quan là hành vi dùng vũ lực ngoài những trường pháp luật cho phép tức là sử dụng vũ lực (chủ yếu là sử dụng súng, công cụ hỗ trợ) không tuân thủ theo quy định tại Nghị định 84/ HĐBT ban hành ngày 2/7/84 (Nghị định này đã liệt kê những trường hợp được nổ súng bắn vào đối tượng).

+ Hậu quả nạn nhân chết là dấu hiệu bắt buộc.

+ Hoàn cảnh phạm tội tội phạm xảy ra trong khi can phạm đang thi hành công vụ.

Ví dụ 1: A là cán bộ kiểm lâm, trong khi đang làm nhiệm vụ phát hiện trên xe của B, C, D đang chở gỗ lậu. A ra hiệu lệnh cho xe dừng lại để kiểm tra nhưng xe tiếp tục chạy trốn. A bắn vào lốp xe, xe bị xịt lốp. 3 tên này quay lại dùng súng xông vào tấn công A. A nhằm vào tên B để bắn, B chết. Hành vi của A phải bị xử lý theo Điều 96.

Ví dụ 2: Cũng tình huống trên nhưng ngay khi A ra hiệu lệnh cho xe dừng lại nhưng xe không dừng, mà A đã nổ súng làm B chết thì hành vi của A bị xử lý theo Điều 97.

Như vậy, giữa 2 tội này xét về mặt thực tế chúng khác nhau ở chỗ, đối với Điều 96 nạn nhân phải có hành vi tấn công và hành vi tấn công phải đang hiện tại, còn đối với Điều 97 nạn nhân có hành vi vi phạm pháp luật khác ngoài những trường hợp hành vi tấn công của nạn nhân đang hiện tại như hành vi không chấp hành hiệu lệnh của CSGT, cán bộ kiểm lâm đang làm nhiệm vụ.

2.1.6. Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 99)

Khách thể của tội phạm xâm phạm tính mạng con người.

Chủ thể của tội phạm bất kỳ ai.

Mặt chủ quan của tội phạm lỗi vô ý vì quá tự tin hoặc lỗi vô ý vì cẩu thả.

Mặt khách quan của tội phạm được đặc trưng bởi các dấu hiệu sau:

+ Hành vi khách quan được thực hiện bằng 1 trong 2 loại hành vi sau:

@ Hành vi phạm quy tắc hành chính.

Ví dụ: A khi thấy người khác đang có nguy cơ chết đuối nên điều động B là nhân viên của mình ra cứu người đó, mà A biết là B không biết bơi, B chết.

@ Hành vi vi phạm quy tắc nghề nghiệp.

Ví dụ: A là thợ điện mắc dây điện trần không đúng độ cao quy định, B đụng phải, B chết. Hoặc A là y tá của bệnh viện Trung ương Huế, khi phát thuốc cho bệnh nhân do cẩu thả không kiểm tra thuốc nên đã đưa nhầm thuốc cho bệnh nhân uống và bệnh nhân chết.

+ Hậu quả nạn nhân chết là dấu hiệu bắt buộc.

2.1.7. Tội vô ý làm chết người (Điều 98)

Tội vô ý làm chết người chỉ khác Điều 99 ở hành vi khách quan. Hành vi khách quan của Tội vô ý làm chết người là hành vi phạm các quy tắc về an toàn chung khác (ngoài phạm vi những trường hợp của Điều 99).

2.1.8. Tội bức tử (Điều 100)

Khách thể của tội phạm xâm phạm tính mạng con người.

Mặt khách quan của tội phạm được đặc trưng bởi các dấu hiệu sau:

+ Hành vi khách quan thể hiện ở 1 trong 4 dạng hành vi sau:

@ Hành vi đối xử tàn ác: Ví dụ bỏ đói, bỏ rét, bắt làm việc quá sức. Đánh đập nạn nhân có thể 1 hoặc nhiều lần. Hành vi đánh đập gây thương tích cho nạn nhân mà hậu quả thương tật từ 11% trở lên bị truy tố về 2 tội.

Ví dụ: A là mẹ kế thường xuyên đánh đập con riêng của chồng là B gây thương tích 20%. B tự sát.

A bị truy cứu TNHS về 2 tội: Tội cố ý gây thương tích với tỷ lệ thương tật là 20% và Tội bức tử.

@ Hành vi ức hiếp: Chèn ép không cho nạn nhân có quyền, ăn, quyền nói, quyền thể hiện ý chí của mình hoặc đối xử bất công với nạn nhân như đánh đập không cho kêu la, không cho khóc.

@ Hành vi ngược đãi: Đối xử tồi tệ với nạn nhân trái với quy tắc đạo đức, biểu hiện thực tế như cho nạn nhân ăn chung với chó, mèo hoặc cho ngủ ngoài chuồng lợn.

@ Hành vi làm nhục: Có những lời nói miệt thị, chửi bới, xúc phạm danh dự, nhân phẩm của nạn nhân. Chửi rủa, xỉ vả nạn nhân trước đám đông, tung tin thất thiệt để người khác tin nạn nhân là người xấu xa tội lỗi.

Chú ý: Hành vi thứ nhất có thể diễn ra một lần hoặc nhiều lần. nhưng ba loại hành vi sau phải xảy ra thường xuyên mới cấu thành tội phạm

+ Hậu quả nạn nhân có hành vi tự sát.

Đây là tội có CTTP vật chất, tội phạm hoàn thành khi có hành vi tự sát của nạn nhân - là hậu quả được quy định trong cấu thành tội phạm.

+ Giữa hành vi khách quan và việc tự sát của nạn nhân phải có mối quan hệ nhân quả với nhau, tức là nguyên nhân chính làm nạn nhân tự sát phải là do 1 trong 4 hành vi khách quan nêu trên gây ra.

Chủ thể của tội phạm là người mà nạn nhân có quan hệ lệ thuộc. Có thể lệ thuộc về kinh tế, quan hệ gia đình, quan hệ công tác, quan hệ tín ngưỡng. Ví dụ: Cha mẹ kế với con riêng của vợ hoặc của chồng, mẹ chồng với con dâu

Mặt chủ quan của tội phạm lỗi cố ý gián tiếp hoặc lỗi vô ý vì quá tự. Nếu hành vi bức tử làm nạn nhân tự sát thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp thì bị xử lý về Tội giết người (Điều 93).

2.1.10 Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng (Điều l02)

Khách thể, mặt chủ quan của tội phạm giống Điều 93.

Chủ thể của tội phạm là người từ đủ 16 buổi trở lên, có NLTNHS, và phải là người có khả năng cứu giúp nạn nhân đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.

Mặt khách quan của tội phạm được thể hiện ở một số các dấu hiệu sau:

+ Hành vi khách quan là hành vi không cứu người khác (tức là tội phạm luôn thực hiện bằng không hành động).

Ví dụ: Người lái đò biết bơi thấy 1 người sắp chết đuối kêu cứu nhưng bỏ mặc dẫn đến họ bị chết.

+ Hoàn cảnh phạm tội nạn nhân đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng - là người đang gặp rủi ro như sắp bị chết đuối hoặc bị tai nạn giao thông, tai nạn lao động, tính mạng đang trực tiếp bị đe doạ, nếu không kịp thời cứu chữa sẽ bị chết.

Tình trạng nguy hiểm này có thể do khách quan, có thể do người phạm tội gây ra.

+ Hậu quả của tội phạm nạn nhân chết là dấu hiệu bắt buộc (chỉ CTTP nếu nạn nhân chết- tức là không có giai đoạn phạm tội chưa đạt)

Ví dụ 1: A là bác sĩ đang trên đường đến bệnh viện gặp B bị tai nạn xe máy đang nằm trên đường, A có đủ phương tiện để cấp cứu cho B nhưng A không cứu chữa, B chết.

Ví dụ 2: A là cảnh sát Phòng cháy chữa cháy đang trên đường đi làm về, thấy có 2 nạn nhân trong vụ hoả hoạn nhưng không cứu nên nạn nhân chết.

Trong cả 2 ví dụ trên, nếu tình huống đó xây ra trong thời gian Bác sĩ hoặc Cảnh sát PCCC đang làm nhiệm vụ thì bị xử lý theo Điều 93 về tôi giết người. Vì lúc này phát sinh nghĩa vụ pháp lý bắt buộc theo công vụ, chứ không phải là cứu giúp như Điều 102

BÀI VIẾT TƯƠNG TỰ:
Nét độc đáo của quy phạm pháp luật trong bộ luật Hồng Đức
BÀI VIẾT MỚI HƠN :
Bài 3. Các tội xâm phạm sở hữu - 13.11
Bài 4. Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế - 13.11
Bài 5. Các tội xâm phạm quyền tự do dân chủ của công dân - 13.11
Nhập môn phần các tội phạm - 13.11
Bài 6. Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân, gia đình - 13.11
BÀI VIẾT TRƯỚC ĐÓ :
Bài 1. Các tội xâm phạm an ninh quốc gia - 02.04

2.2. Các tội xâm phạm sức khỏe của con người
2.2. CÁC TỘI XÂM PHẠM SỨC KHOẺ CỦA CON NGƯỜI

2.2.1. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ người khác (Điều l04)

a. Các dấu hiệu pháp lý

Các dấu hiệu pháp lý của tội này về khách thể, chủ thể, mặt chủ quan, mặt khách quan giống Điều 93. Chỉ khác Điều 93 ở dấu hiệu hậu quả trong cấu thành tội phạm

Hậu quả trong CTTP của Điều 93 là nạn nhân chết, còn hậu quả của Điều l04 thể hiện ở 2 dạng:

+ Gây thương tích là những tổn thương gây ra trên cơ thể của người khác mà tổn thương này có thể xác định được thông qua thị giác.

Ví dụ: A dùng dao đâm 1 nhát vào cánh tay phải của B.

+ Gây tổn hại cho sức khoẻ là những tổn thương gây ra trên cơ thể của người khác, để xác định các tổn thương này phải thông qua phương tiện khoa học kỹ thuật.

Ví dụ: A dùng gậy đập vào lưng của B, B bị gãy xương bả vai.

Chú ý: Để xác định tỷ lệ thương tật của nạn nhân phải căn cứ vào Thông tư số 12, thông tư liên bộ Bộ Y tế- Bộ Lao động Thương binh Xã hội ban hành ngày 26/7/95. Dù hậu quả của tội phạm ở dạng nào thì cũng đều xác định trên cơ sở tỷ lệ thương tật - là tỷ lệ % mất sức lao động của nạn nhân do tội phạm gây ra, làm cơ sở xác định TNHS đối với người phạm tội.

b. Hình phạt

Hình phạt của Điều 104 có 4 khung:

Khoản 1: Phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm hoặc phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm, nếu tỷ lệ thương tật của nạn nhân từ 11 - 30% hoặc dưới 11 % nhưng thuộc 1 trong các trường hợp sau:

1. Dùng hung khí nguy hiểm hoặc dùng thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người.

Hung khí nguy hiểm như: Dao nhọn, lê, thuốc nổ, a xít.

Thủ đoạn có khả năng gây nguy hại cho nhiều người như: Tạt a xít nơi đông người, đốt nhà đêm khuya khi mọi người đang ngủ gây bỏng cho nhiều người.

Nghị quyết 02/2003/HĐTPTATC hướng dẫn về phương tiện nguy hiểm là những vật có sẵn trong tự nhiên hoặc vật do tự chế.

2. Gây cố tật nhẹ cho nạn nhân: Là thương tật do tội phạm để lại vĩnh viễn trên cơ thể nạn nhân, hoặc làm mất đi một chức năng nào đó của nạn nhân như mất một miếng lưỡi làm nạn nhân nói ngọng, cụt một cánh tay. Tỷ lệ thương tật của cố tật phải dưới 11%.

Theo Nghị quyết 02/2003/HĐTPTATC thì cố tật nhẹ thuộc các dạng:

- Làm mất một bộ phận cơ thể nạn nhân như làm mất các đốt ngón tay.

- Làm mất chức năng một bộ phận cơ thể nạn nhân như thương tích làm cứng các khớp liên đốt ngón tay.

- Làm giảm chức năng một bộ phận cơ thể của nạn nhân như làm giảm thị lực mắt.

- Làm ảnh hưởng đến thẩm mỹ của nạn nhân như để lại sẹo trên mặt.

3. Phạm tội nhiều lần đối với cùng một người hoặc đối với nhiều ngư*ời. (tình tiết này đã được hướng dẫn trong Nghị Quyết 01/2006/HĐTPTATC ngày 12/05/2006 nhưng vẫn còn nhiều cách hiểu khác nhau).

Ví dụ: Ngày 01/01/2000 - A đâm B tỷ lệ thương tật của B là 10%. Ngày 03/01/2000 - A dùng gạch ném B tỷ lệ thương tật của B là 5%

Trường hợp trên có quan điểm cho rằng không bị coi là phạm tội nhiều lần, vì mỗi lần gây thương tích đều chưa đủ yếu tố CTTP. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng thuộc trường hợp phạm tội nhiều lần được quy định tại Điểm c, khoản 1, Điều 104.

4. Phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ đang có thai, người già yếu, ốm đau hoặc người không có khả năng tự vệ.

Nạn nhân là phụ nữ đang có thai thì không cần người phạm tội có biết hay không biết là nạn nhân là người đang có thai, mà chỉ cần dựa vào kết luận giám định pháp y là người đó đang có thai.

5. Phạm tội đối với ông, bà, cha, mẹ. người nuôi dưỡng, thầy giáo cô giáo của mình

6. Phạm tội có tổ chức.

7. Phạm tội trong thời gian đang bị tạm giữ, tạm giam, hoặc đang bị áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở giáo dục.

8. Thuê gây thương tích hoặc gây thương tích thuê.

9. Có tính chất côn đồ.

10. Để cản trở người thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân

Nội dung các tình tiết này hoàn toàn giống Tội giết người

Khoản 2: Phạt tù từ 2 năm đến 7 năm nếu thuộc một trong các trường hợp sau:

1. Tỷ lệ thương tật của nạn nhân từ 3 1% đến 60%.

2. Tỷ lệ thương tật của nạn nhân từ 11% đến 30% nhưng thuộc 1 trong 10 trường hợp thuộc khoản 1.

Khoản 3: Phạt tù từ 5 năm đến 15 năm trong những trường hợp sau:

1. Tỷ lệ thương tật của nạn nhân từ 61% trở lên

2. Tỷ lệ thương tật của nạn nhân từ 31 % đến 60% nhưng thuộc 1 trong 10 trường hợp nêu ở khoản 1.

3. Gây thương tích dẫn đến chết người: Là trường hợp phạm tội mà can phạm chỉ cố ý với hậu quả thương tích mà vô ý với hậu quả chết người (ở đây có 2 dạng hậu quả là thương tích và chết người với 2 hình thức lỗi khác nhau). Theo hướng dẫn của Nghị quyết 01/89/ HĐTPTANDTC ngày 19/04/89 tình tiết này phải thoả mãn 3 điều kiện sau:

* Phải có thương tích nặng là thương tích có tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên. Ví dụ: Tổn thương động mạch, tĩnh mạch, não, cột sống, các bộ phận nội tạng trong cơ thể nạn nhân.

* Phải có hậu quả chết người xây ra trên thực tế.

* Giữa hậu quả thương tích nặng và hậu quả chết người phải có mối quan hệ nhân quả với nhau.

Cũng coi là cố ý gây thương tích dẫn đến chết người trong trường hợp không phải là thương tích nặng nhưng vì nạn nhân là người quá già yếu (là người từ 70 tuổi trở lên hoặc từ 60 tuổi trở lên mà thường xuyên đau ốm- Công văn số 102/2001/KHXX ngày 20/08/2001 của TANDTC), người có bệnh nặng, việc gây thương tích làm cho nạn nhân bị chết sớm hơn quy luật tự nhiên, nếu không bị gây thương tích thì nạn nhân chưa chết.

Khoản 4: Phạt tù từ 10 năm đến tù chung thân trong các trường hợp sau:

+ Gây thương tích làm chết tù 2 người trở lên

+ Phạm tội trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng khác: Hội tụ nhiều tình tiết ở khoản 3, hoặc gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội



Lương là một tên vũ phu, tính tình hung hãn, đã có tiền án về tội gây rối trật tự công cộng. Vào lúc 18 giờ ngày 20/10/1998 khi thấy mất 2 con gà, Lương đã hỏi vợ (Loan) và con (Lê). Hai người trả lời không biết. Lương lấy luồng trên mái nhà bắt cháu Lê lên giường đánh 30 phút rồi bắt Lê ra khe suối, đẩy Lê xuống nước. Lê bị sặc nước vùng vẫy không đứng lên được Lương lội xuống kéo Lê lên bờ rồi bỏ về nhà bảo vợ lấy xe ra chở Lê về, về tới nhà được 15 phút thì Lê chết.

Hãy đánh giá tính chất pháp lý của vụ án trên.

2.2.2. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 105)

2.2.3. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Điều 106)

2.2.4. Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 107)

2.2.5. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (Điều 108)

2.2.6. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 109)

Các dấu hiệu pháp lý của các tội danh này giống các tội danh tương ứng trong nhóm các tội xâm phạm tính mạng của con người, chỉ khác ở hậu quả thương tích phải từ 31% trở lên.

Bài tập tình huống 2

Đặng Văn V và Nguyễn Văn H là hai anh em rể sống với nhau vui vẻ và giữa hai người không có mâu thuẫn gì. Trong khi H đi làm xa, vợ con của H vẫn ở chung với gia đình V. Vào lúc l0h ngày 25/01/2000 vào dịp H nghỉ tết, hai anh em có xích mích cãi vã nhau. H nói “vợ tao là vợ mày, con tao là con mày" rồi đấm V một cái vào mặt. V chạy từ nhà ngoài vào nhà trong lấy 1 con dao rựa mới mua, dài 40cm đem ra chém H. H bị 3 vết thương nặng, trong đó có 1 vết dài 8cm làm vỡ xương sọ. H đã chết sau 37 ngày điều trị. Hãy xác định trách nhiệm hình sự của V?


2.3. Các tội xâm phạm danh dự của con người
2.3. CÁC TỘI XÂM PHẠM DANH DỰ CỦA CON NGƯỜI

2.3.1. Tội làm nhục người khác (Điều 121)

Khách thể của tội phạm là sự xâm phạm danh dự con người.

Mặt khách quan của tội phạm được thể hiện ở hành vi khách quan là hành vi xúc phạm nghiêm trọng danh dự của con người như có lời nói miệt thị, chửi rủa, lăng nhục, sỉ nhục nạn nhân ở nơi đông người; hoặc có hành động có tính chất bỉ ổi như: nhổ nước bọt vào mặt, lột trần truồng nạn nhân, ném phân vào người.

Hành vi trên có thể thực hiện công khai trước mặt nạn nhân, có thể không có mặt nạn nhân và phải ở mức độ nghiêm trọng. Để đánh giá tính chất nghiêm trọng của hành vi phạm tội phải căn cứ vào:

* Thái độ nhận thức của người phạm tội

* Cường độ và thời gian kéo dài của hành vi

* Vị trí, môi trường xung quanh.

* Vai trò của người bị hại trong gia đình, tổ chức, xã hội

* Dư luận xã hội về hành vi lăng nhục nhục đó.

Chủ thể của tội phạm là bất kỳ ai từ đủ 16 tuổi trở lên

Mặt chủ quan của tội phạm được đặc trưng bởi 2 dấu hiệu:

+ Lỗi cố ý trực tiếp.

+ Mục đích nhằm hạ thấp danh dự của nạn nhân là dấu hiệu bắt buộc.

2.3.2. Tội vu khống (Điều 122)

Khách thể, chủ thể, mặt chủ quan của tội phạm giống Điều 121.

Mặt khách quan của tội phạm hành vi khách quan được thực hiện bằng 1 trong 3 loại hành vi sau:

+ Bịa đặt: Hư cấu một thông tin không có thật. Ví dụ dựng ra thông tin A và B đi nghỉ mát 1 tuần ở Sa Pa

+ Loan truyền những điều biết rõ là bịa đặt

+ Bịa đặt là người khác phạm tội và tố cáo họ trước cơ quan có thẩm quyền

Trả Lời Với Trích Dẫn
13-11-2011, 19:20 #5 hieuto
NEVER EAT ALONE.


Tham gia ngày
Oct 2010
Bài viết
120
Thích
206
Được thích 157 lần / 130 bài viết
2.4. Các tội xâm phạm nhân phẩm con người
2.4. CÁC TỘI XÂM PHẠM NHÂN PHẨM CON NGƯỜI

2.4.1. Tội hiếp dâm (Điều 111)

a. Các dấu hiệu pháp lý

Khách thể của tội phạm xâm phạm nhân phẩm con người- đó là quyền bất khả xâm phạm quyền tự do về tình dục của người khác.

Mặt khách quan của tội phạm được thực hiện bằng 2 loại hành vi

Nhóm 1: Được thực hiệu bằng 1 trong 4 loại hành vi sau:

@ Hành vi dùng vũ lực: Là hành vi dùng sức mạnh vật chất tác động lên cơ thể của nạn nhân như vật ngã, xô ngã, đánh đấm, giữ tay, giữ chân, bịt miệng, xé quần, xé áo nạn nhân.

@ Đe doạ dùng vũ lực: Lời nói khống chế nếu nạn nhân không cho giao cấu thì sẽ dùng vũ lực ngay.

@ Lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân như nạn nhân đang trong rừng một mình trong đêm tối, nạn nhân bị say rượu (không phải do người phạm tội làm nạn nhân say, nếu người phạm tội làm nạn nhân uống say thì rơi vào thủ đoạn khác). nạn nhân đang ngủ say, nạn nhân bị tâm thần.

@ Hoặc thủ đoạn khác: Là trường hợp can phạm cho nạn nhân dùng thuốc kích thích, uống rượu, nạn nhân nhầm là chồng mình.

Đặc điểm của hành vi trên phải làm tê liệt ý chí, hoặc khả năng chống cự của nạn nhân. Việc có hay không hành vi giao cấu là do người phạm tội quyết định.

Nhóm 2: Là hành vi giao cấu

Đặc điểm của hành vi giao cấu là nạn nhân hoàn toàn không biểu lộ được ý chí. Còn nếu nạn nhân biểu lộ được ý chí thì việc giao cấu phải là trái ý muốn của nạn nhân (tức là không được sự đồng ý của nạn nhân). Để đánh giá đặc điểm này phải căn cứ vào quá trình diễn biến tội phạm và sự chống trả, phản ứng của nạn nhân.

Thời điểm tội phạm hoàn thành khi bắt đầu có hành vi giao cấu. Đây là tội có CTTP hình thức nhưng mặt khách quan được đặc trưng bởi 2 loại hành vi, nên vẫn có trường hợp phạm tội hiếp dâm chưa đạt.

Chủ thể của tội phạm có thể là nam giới hoặc nữ giới. Quy định về chủ thể của tội phạm trong BLHS 1999 khác so với BLHS I985 là chủ thể của tội hiếp dâm chỉ là nam giới.

Mặt chủ quan của tội phạm là lỗi cố ý trực tiếp.

b. Hình phạt

Hình phạt của Điều 111 quy định 4 khung như sau:

Khoản 1: Bị phạt tù từ 2 năm đến 7 năm trong trường hợp thông thư*ờng.

Khoản 2: Phạt tù từ 7 năm đến 15 năm nếu thuộc một trong các trường hợp sau:

1. Có tổ chức.

2. Đối với người mà người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục, chữa bệnh.

3. Nhiều người hiếp một người.

4. Phạm tội nhiều lần.

5. Hiếp dâm đối với nhiều người.

6. Có tính chất loạn luân: Là trường hợp hiếp dâm người có quan hệ cùng dòng máu về trực hệ trong phạm vi 3 đời.

7. Làm nạn nhân có thai.

8. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 31 % đến 60% (hậu quả này thực hiện với hình thức lỗi vô ý).

Khoản 3: Phạt tù từ 12 năm đến tử hình nếu thuộc một trong các trường hợp sau:

1. Gây tổn hại cho sức khoẻ của nạn nhân mà tỷ lệ thương tật từ 61 % trở lên.

2. Làm nạn nhân chết hoặc tự sát.

Các hậu quả của 2 tình tiết này đều với hình thức lỗi vô ý.

3. Biết mình bị nhiễm HIV mà vẫn phạm tội

Khoản 4: Phạm tội hiếp dâm mà nạn nhân từ đủ 16 tuổi đến 18 tuổi.

Chú ý: Nạn nhân của tội hiếp dâm là người từ đủ 16 tuổi trở lên.

2.4.2. Tội hiếp dâm trẻ em (Điều 112)

Trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi các dấu hiệu pháp lý và các tình tiết định khung hoàn toàn giống Điều 111.

Với trẻ em dưới 13 tuổi thì chỉ cần có hành vi giao cấu, hay nói cách khác mọi hành vi giao cấu với người dưới 13 tuổi luôn cấu thành tội hiếp dâm trẻ em.

2.4.3. Tội cưỡng dâm (Điều 113)

Khách thể, chủ thể, mặt chủ quan của tội phạm, các tình tiết định khung giống Điều 111.

Mặt khách quan của tội phạm có 2 nhóm hành vi

Nhóm 1: Được thực hiện bằng 1 trong 2 loại hành vi sau

@ Lợi dụng sự lệ thuộc của nạn nhân đối với mình. Có thể lệ thuộc về kinh tế, quan hệ gia đình, quan hệ công tác, quan hệ tín ngưỡng. Ví dụ: Cha mẹ kế với con riêng của vợ hoặc của chồng, mẹ chồng với con dâu, thủ trưởng với nhân viên.

@ Lợi dụng nạn nhân đang ở trong tình trạng quẫn bách: Là trường hợp nạn nhân đang trong hoàn cảnh hết sức khó khăn, nếu không có sự hỗ trợ của người khác thì họ rất khó khắc phục được như người thân, ruột thịt bị mắc bệnh hiểm nghèo, bị tai nạn nghiêm trọng mà gia đình không có tiền chữa chạy và không thể vay mượn được.

Nhóm 2: Hành vi giao cấu.

Đặc điểm của hành vi giao cấu là nạn nhân miễn cưỡng chịu sự giao cấu. Việc giao cấu hay không là do nạn nhân quyết định.

2.4.4. Tội cưỡng dâm trẻ em (Điều 114)

Chỉ khác Điều 113 về đối tượng tác động là trẻ em từ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.

2.4.5. Tội giao cấu với trẻ em (Điều 115)

Khách thể, chủ thể, mặt chủ quan của tội phạm, các tình tiết định khung giống Điều 111.

Mặt khách quan của tội phạm đặc trưng bởi 2 dấu hiệu.

+ Hành vi khách quan là hành vi giao cấu có sự thuận tình của nạn nhân.

+ Đối tượng tác động của tội phạm là trẻ em từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi.

2.4.6. Tội dâm ô với trẻ em (Điều 116)

Khách thể, chủ thể, mặt chủ quan của tội phạm giống Điều 111.

Mặt khách quan của tội phạm đặc trưng bởi 2 dấu hiệu

+ Hành vi khách quan là hành vi dâm ô. Hành vi dâm ô được biểu hiện là hành vi kích thích, khoái lạc về tình dục như sờ, mó, hôn hít vào các bộ phận gây kích thích về tình dục của trẻ em. Can phạm có thể trực tiếp thực hiện, cũng có thể thể bắt nạn nhân thực hiện các hành vi này.

+ Đối tượng tác động của tội phạm là trẻ em dưới 16 tuổi.

Ví dụ: Vụ án dâm ô trẻ em của ca sĩ người Anh xảy ra ở Vũng Tàu năm 2005.

2.4.7. Tội lây truyền HIV cho người khác (Điều 117)

Khách thể của tội phạm là sự xâm phạm đến sức khoẻ hoặc tính mạng của con người.

Chủ thể của tội phạm là bất kỳ ai bị nhiễm vi rút HIV.

Mặt chủ quan của tội phạm lỗi cố ý trực tiếp.

Mặt khách quan của tội phạm là hành vi truyền trực tiếp HIV từ mình sang nạn nhân.

2.4.8. Tội cố ý truyền HIV cho người khác (Điều 118)

Khách thể của tội phạm là sự xâm phạm đến sức khoẻ hoặc tính mạng của con người.

Chủ thể của tội phạm là bất kỳ ai có thể bị nhiễm có thể không bị nhiễm vi rút HIV. Thông thường là bác sĩ thực hiện khi truyền máu cho người khác.

Mặt chủ quan của tội phạm là lỗi cố ý trực tiếp.

Mặt khách quan của tội phạm là hành vi truyền HIV từ người khác sang nạn nhân.

Đây là 2 tội phạm mới được quy định trong BLHS 1999.

2.4.9. Tội mua bán phụ nữ (Điều 119)

Khách thể của tội phạm là sự xâm phạm đến nhân phẩm của người phụ nữ.

Chủ thể của tội phạm là bất kỳ ai có NLTNHS.

Mặt chủ quan của tội phạm là lỗi cố ý trực tiếp.

Mặt khách quan của tội phạm được đặc trưng bởi 2 dấu hiệu:

+ Đối tượng tác động của tội phạm là phụ nữ. Phụ nữ là người từ đủ 16 tuổi trở lên.

+ Hành vi khách quan của tội phạm là hành vi mua bán phụ nữ.

Hành vi này thể hiện 3 dạng:

@ Chỉ có hành vi bán phụ nữ.

@ Có hành vi mua và hành vi bán.

@ Mới có hành vi mua nhưng nhằm mục đích để bán.

2.4.10. Tội mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em (Điều 120)

Khách thể của tội phạm là sự xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự, sức khoẻ của trẻ em.

Chủ thể của tội phạm là bất kỳ ai có NLTNHS.

Mặt chủ quan của tội phạm là lỗi cố ý trực tiếp.

Mặt khách quan của tội phạm được đặc trưng bởi 2 dấu hiệu.

+ Đối tượng tác động của tội phạm là trẻ em. Trẻ em là người dưới 16 tuổi.

+ Hành vi khách quan của tội phạm thực hiện bởi một trong các hành vi sau:

@ Hành vi mua bán trẻ em: Giống hành vi mua bán phụ nữ.

@ Hành vi đánh tráo trẻ em: Là hành vi đổi trẻ em nữ lấy trẻ em nam hoặc đổi trẻ em dị tật lấy trẻ em bình thường.

@ Hành vi chiếm đoạt trẻ em: Là hành vi cướp, bắt cóc, trộm cắp trẻ em.


Câu hỏi và bài tập tình huống
Câu hỏi

1.So sánh tội giết người với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và với tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.

2.So sánh tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng với tội làm chết người trong khi thi hành công vụ

3.Giết nhiều người là trường hợp giết chết từ 2 người trở lên.

4.Giết thầy cô giáo của mình là trường hợp giết nạn nhân là người đã hoặc đang giảng dạy người phạm tội.

5. So sánh tội giết người bằng không hành động với tội không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.


Bài tập tình huống

Bài tập số 01:

Tạ Thị Lạng và Trần Thị Thuỳ trú tại thị trấn Di Linh (Lâm Đồng) là bạn thân với nhau. Sáng 09/4/1999, cả hai đi coi bói, trên đường về gặp Trương Văn Dương là người quen Thuỳ. Dương mời Thuỳ và Lạng vào nhà chơi. Trong khi trò chuyện Dương nói là biết xem bói rồi cầm tay Lạng nói: "Lạng bị tình duyên trắc trở, người ốm yếu, đêm khó ngủ, ngày nắng đau đầu vì bị ma ám. Nếu không cúng trừ giải ma thì đến ngày 27/07/1999 sẽ bị chết". Lạng hỏi: "Muốn cúng giải ma thì tìm thầy ở đâu ?". Dương trả lời là Dương biết cúng giải ma, Lạng và Thuỳ nhờ Dương cúng giải ma, Dương đồng ý.

Khi Lạng đem rượu, nhang đến nhờ Dương cúng, Dương nói phải cúng nơi thoáng đãng mới thiêng và phải cúng 09 lần mới trừ được con ma. Từ ngày 16/04 đến ngày 22/04, Dương cúng 07 lần trừ giải ma cho Lạng bằng hình thức bắt Lạng ngồi quay lưng lại, kéo áo lên ngang lưng xoa rượu vào tay, sau đó xoa vào lưng Lạng.

Lần cúng trừ giải ma lần thứ 08 vào lúc 12 giờ ngày 22/04, Dương đưa Lạng ra gốc cây cổ thụ sau vườn cách nhà Dương 100m. Ra tới gốc cây trời đổ mưa, hai người đứng dưới gốc cây nói chuyện, Dương ngỏ lời yêu Lạng. Lạng trả lời đã có người yêu. Dương kéo tay Lạng làm Lạng ngã xuống đất. Dương nói: "Nếu không cho quan hệ tình dục thì sẽ không cúng giải ma nữa và sẽ bỏ bùa cho điên dại và sẽ chết vào ngày 27/07". Lạng không nói gì, Dương đẩy Lạng nằm ngửa ra đất, một tay đè lên ngực Lạng, một tay cởi quần áo của Lạng và thực hiện hành vi giao cấu.

Sau khi quan hệ xong, cả hai mặc quần áo về nhà Dương vào bếp sưởi ăn bánh nói chuyện. Dương nói: "Sáng mai đem sổ hộ khẩu, giấy chứng minh nhân dân cho Dương để đi đăng ký kết hôn". Vào lúc 7 giờ 30 ngày 25/04, Lạng đem sổ hộ khẩu, giấy chứng minh cho Dương. Dương nói hôm nay UBND không làm việc, hôm nay lại là ngày cúng ma cuối cùng nên để hôm khác đi đăng ký kết hôn.

Hai ngày sau đó, Dương và Lạng về vườn cách nhà Lạng 100m để cúng trừ ma. Cúng xong, Dương ôm lấy Lạng, trong khi cả hai ôm nhau chuẩn bị giao cấu thì ông Tiến bố Lạng bắt gặp, hô lên. Lạng và Dương đón xe xuống nhà chị Thuận (chị gái Dương) ngủ lại một đêm. Sáng hôm sau, hai người cùng chị Thuận về gặp ông Tiến xin phép cho Dương cưới Lạng. Gia đình ông Tiến hẹn 03 ngày sau sẽ trả lời, nhưng đến ngay sáng hôm sau thì ông Tiến cùng Lạng làm đơn tố cáo hành vi của Dương

Hãy xác định tính chất pháp lý hình sự của vụ án trên.

Bài tập số 02:

Vào khoảng 08 giờ ngày 30/4/2003 Đinh Trọng Tài đang tưới cà phê ngoài rẫy thì Nguyễn Nông hàng xóm chạy đến báo tin: "Mày về nhà ngay, thằng Cường con mày đã bị thằng An đánh chết". Tài vội vàng phóng xe về nhà thì thấy Cường đang nằm sóng soài giữa nền nhà, máu chảy rỉ từ cánh tay ra. Hãy xác định tính chất pháp lý hành vi của Tài trong các trường hợp sau:

1- Tài chạy vào trong nhà lấy dao rựa chạy sang nhà An, tìm An để chém. Lúc này trong nhà An chỉ có Thuỷ (10 tuổi con của An) đang nấu ăn trong bếp. Tài đã dùng dao đâm chết Thuỷ.

2- Khi Tài về đến nhà thì thấy An vẫn đang xông vào đấm đá Cường, Tài chạy vào nhà lấy dao chém chết An.

3- Khi Tài về tới nhà thì An đã bỏ đi, Tài liền lấy dao chạy ngay đi tìm An, Tài đi tìm được An đang chơi ở nhà Dũng, Tài đã dùng dao đâm chết An.

Bài tập số 03:

Vào khoảng 08 giờ ngày 03/05/2003 Trần Văn Mạnh là chiến sĩ cảnh sát làm nhiệm vụ dẫn giải Nguyễn Minh Hoàng từ trại giam Thừa Phủ lên trại giam Bình Điền để thi hành án phạt tù. Khi đến địa phận xã Diên Khánh cách trại cải tạo khoảng 1km, địa hình hiểm trở, phức tạp xe ôtô không chạy được nên Mạnh phải dẫn giải Hoàng đi bộ. Đi được khoảng 500 m, bất thình lình Hoàng quay lại túm cổ áo Mạnh, vật ngã Mạnh với mục đích lấy súng làm phương tiện chạy trốn. Trong lúc Mạnh bị đè ngã và giằng co khẩu súng. Mạnh dí súng vào đầu Hoàng bóp cò, đạn nổ làm Hoàng chết.

Hãy xác định tính chất pháp lý hình sự của vụ án trên.

Bài tập số 04:

Lê Công B và Đào Văn H là hai anh em đồng hao. Trong khi H đi làm xa, vợ con H vẫn ở chung với gia đình B.

Ngày 25/01/2001, nhân dịp về ăn tết, H và vợ có chuyện xích mích, cãi nhau. B thấy vậy nói xen vào: "Mày đi cả năm mới về một lần, không thèm đoái hoài tới vợ con, khi về lại cãi nhau, không thấy xấu hổ à". H nói: "Đây là chuyện riêng của vợ chồng tôi, anh không được chõ mồm vào". Thế là hai bên gây sự cãi nhau. Trong khi lời qua tiếng lại, H có nói: "Tao nghe dân làng nói, trong thời gian tao vắng nhà mày dan díu với vợ tao. Con tao là con mày, vợ tao là vợ mày", đồng thời đấm B một cái vào mặt. B tức giận chạy từ nhà ngoài (chỗ hai người cãi nhau) qua phòng trong vào bếp lấy con dao nhựa dài 40 cm đem ra ngoài nhắm đầu H chém liền 3 nhát. H bị 3 vết thương nặng, trong đó có một vết chém dài 08 cm ở vùng trán phải, làm vỡ xương sọ.

Do được đưa đi cứu chữa kịp thời tại Bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội) nên H thoát chết nhưng phải mang thương tích suốt đời với tỷ lệ thương tật là 65%.

Trong quá trình điều tra cho thấy giữa hai người B và H không có mâu thuẫn gì.

Hãy đánh giá tính chất pháp lý hình sự của vụ án trên.

Bài tập số 05:

Bảo Thị Hoài P và anh Lê Văn L cùng quê ở Đồng Tháp, kết hôn với nhau từ năm 1985, đã có một con chung 6 tuổi. Trong thời gian chung sống, L thường xuyên ngược đãi và đánh đập P nên hai người đã có giai đoạn sống ly thân với nhau.

Đến năm 1995, cả hai đã hàn gắn lại mối quan hệ vợ chồng và lên Thành phố HCM làm ăn, sinh sống. Ngày 08/02/2002, do hai người có mâu thuẫn nhỏ trong việc giáo dục con, L và P đã lời qua tiếng lại với nhau. Trong lúc nóng giận, L đã doạ đòi giết P và lấy con dao chặt xương để bên cạnh giường rồi đi ngủ.

Thấy con dao đặt cạnh chồng, P thấy sợ liền lấy cất đi. Vừa lúc đó, L giật mình tỉnh dậy, giằng con dao trên tay P làm dao rơi trúng cổ L. Sợ L chém mình nên P chụp vội lấy con dao và chém nhiều nhát vào đầu, lưng L. Khi L chết, lo sợ bị phát hiện nên P đã cắt xác L ra nhiều phần cho vào bao bì, sau đó thuê xích lô đến chở xác L và giấu ở ba nơi.

Thực hiện xong việc tẩu tán xác L, P bỏ trốn về Đồng Tháp và một tuần sau thì bị bắt.

Hãy xác định tội danh và khung hình phạt áp dụng đối với P.

Bài tập số 06:

Phạm Anh H đi ô tô từ Hà Nội về Thị trấn K rồi từ đó cuốc bộ về nhà. Đi được khoảng hơn 1 km, do mệt mỏi H kiếm một lô đất bên đường ngồi nghỉ. Đang lúc lúi húi mở túi du lịch lấy chai rượu để uống vài ngụm cho lại sức thì bất ngờ một tiếng quát: "Ngồi im, động đậy tao giết" kèm theo tiếng quát là một mũi dao nhọ dí sát vào sườn của H. Tên này buộc anh phải đưa các thứ mang theo người như: túi du lịch, đồng hồ, tiền.

Thấy túi ngực anh H căng phồng, tên cướp tưởng là có tiền nên tay phải cầm dao tay trái lần mở cúc túi áo. Lợi dụng lúc tên cướp sơ hở, H đã dùng cùi chỏ thúc mạnh ra đằng sau vào ngực tên cướp và tay kia gạt mạnh hất con dao bắn ra xa và đấm vào mặt tên cướp. Tên cướp tránh quả đấm và sau đó dùng châm đạp mạnh vào ngực H, rồi cả hai người nhảy vào nhau vật lộn dữ dội. Cuối cùng H chống chân lật mạnh người đè lên người tên cướp rồi đấm liên tiếp vào mặt vào bụng tên cướp làm máu mồm, máu mũi hộc ra, ôm bụng quằn quại dưới đất. H đứng dậy toàn thân ê ẩm, chân tay xây xát, máu chảy nhiều. Anh vớ lấy chai rượu đang nằm nghiêng bên đường nhằm thẳng vào đầu tên cướp đang nằm dưới đất đập mạnh một nhát rồi lấy đồ đi về nhà.

Qua điều tra xác định, tên cướp tên là Nguyễn Quang S (người thị trấn K là con nghiện có nhiều tiền án, tiền sự). H đã được người dân phát hiện đưa đi cứu chữa. Do bị thương quá nặng, nên 25 ngày sau S bị chết.

Hãy đánh giá tính chất pháp lý hình sự của vụ án trên.

Bài tập số 07:

Tối ngày 24/04/2002, Nguyễn Văn K đang ở nhà thì thấy có người gọi ngoài ngõ. K ra xem ai gọi mình, nhưng do trời tối, chưa nhìn thấy ai thì bất thình lình bị nhiều người xông vào đấm đá túi bụi, thấy vậy K vội kêu cứu và bỏ chạy nhưng số người này vẫn đuổi theo tấn công. Sẳn có con dao nhíp trong túi, K rút ra nói: "Tao không có thù oán với đứa nào cả, để tao yên. Nếu đứa nào xông vào tao đâm chết". Những người đuổi theo vẫn lao vào đánh, K bị ngã nhưng chúng vẫn không tha, sẵn có con dao trong tay K đâm ngược lại phía sau, không ngờ trúng tim một người trong bọn chúng chết ngay tại chỗ. Thấy vậy, cả bọn sợ bỏ chạy, sau đó K ra cơ quan công an trình báo sự việc.

Tại cơ quan công an, K được biết người chết là Nguyễn Văn B người làng bên. Do căm tức K tìm hiểu yêu đương Nguyễn Thị L là bạn thân của mình nên B đã rủ một số thanh niên trong làng tìm gặp cho K một bài học và dẫn đến sự việc đau lòng như đã nêu trên.

Hãy đánh giá tính chất pháp lý hình sự của vụ án trên.

Trả Lời Với Trích Dẫn