Vũ Ngọc Út1,
ABSTRACT, Salinity tolerance of juveniles Scylla paramamosain, both wild and hatchery-reared crabs was, investigated in different salinities including 0, 5, 10, 15, 20, 15 and 30 o/oo. The experiments were, conducted in bio-recirculation and batch systems. Crabs were kept individually in perforated, plastic jars and baskets floated on 500 L and 2 m3 tanks. They were fed with peeled shrimp flesh, to ad libitum once daily in the afternoon. Crabs were checked twice a day in the morning and in, the afternoon when feeding to determine growth rate, percentage growth increment, number of, molts and molting interval. Survival was estimated at the end of the experiments. The results, showed that juvenile crabs were less tolerant at low salinities of 5 and 10 o/oo as lower growth, rate and survival. Whereas, crabs in 15-25 o/oo had higher growth rate, shorter molting interval, and higher number of molting crabs at each molt. Suitable salinities for growth and development, of juvenile crabs are 15-25 o/oo, in which 20-25 o/oo are considered the optimal salinity range., Crabs could not sustain and survive in 0 o/oo within a week, although they were found to exist in, the estuaries where salinities drop down to 0 o/oo during the rainy season., Keywords: salinity, Scylla paramamosain, growth, Title: Effects of water salinity on survival rate of mub crabs Scylla paramamosain juvenile,
TÓM TẮT, Nghiên cứu được tiến hành với các thí nghiệm trên cua tự nhiên và cua nhân tạo trong hệ thống, tuần hoàn và thay nước ở các độ mặn 0, 5, 10, 15, 20, 25 và 30 o/oo nhằm xác định khả năng ảnh, hưởng của độ mặn lên sinh trưởng và tỉ lệ sống của cua giống ở những độ mặn khác nhau trong, điều kiện ương nuôi. Cua con với kích thước dao động khác nhau tùy theo thí nghiệm, trong khoảng, 5, 5 -52, 7 mm rộng mai (CW) được nuôi riêng lẻ trong các keo mủ đục lỗ và rổ nhựa bố trí trong các, bể chữ nhật 60 L và 2.000 L, và bể tròn 500 L. Cua được cho ăn tép bóc nõn thoả mãn. Cua được, kiểm tra hàng ngày vào sáng sớm và lúc cho ăn vào buổi chiều để xác định tốc độ tăng trưởng, phần trăm gia tăng kích thước sau lột xác, số lần lột xác và chu kỳ lột xác ở các độ mặn khác nhau., Tỉ lệ sống được xác định vào cuối thí nghiệm. Kết quả cho thấy cua giống phát triển kém ở độ mặn, thấp (5 và 10 o/oo ) với tốc độ tăng trưởng và tỉ lệ sống thấp. Trong khi đó, tốc độ tăng trưởng nhanh, hơn, chu kỳ lột xác ngắn hơn và số lượng cua lột ở mỗi lần lột xác cao hơn ở độ mặn 15-25 o/oo. Độ, mặn thích hợp nhất cho sinh trưởng và phát triển của cua là từ 15-25 o/oo, trong đó 20-25 o/oo được, xem là độ mặn tối ưu. Cua không thể tồn tại ở 0o/oo quá 3 ngày trong điều kiện thí nghiệm mặc dù, ngoài tự nhiên cua con vẫn xuất hiện ở vùng cửa sông trong mùa mưa khi độ mặn giảm xuống 0 o/oo., Từ khoá: Độ mặn, Scylla paramamosain, sinh trưởng