View Single Post
  #2  
Old 11-30-2013, 10:19 PM
ngocmentuananh01121989 ngocmentuananh01121989 is offline
Junior Member
 
Tham gia: Nov 2013
Tổng số bài gởi: 2



MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài.
1.1 Cơ sở lý luận nào mà chọn đề tài nghiên cứu
Trãi qua những năm đổi mới và thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đặc biệt là nghị quyết X của Bộ Chính trị 1988 về phát triển kinh tế hộ gia đình. Việt Nam đang trông thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng và nhà nước chủ trương phát triển kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa mà thực tế chưa có nước nào thành công trong phát triển kinh tế thị trường lại thiếu kinh tế tư nhân, kinh tế tư nhân là động lực thúc đẩy kinh tế hàng hóa phát triển trong nền kinh tế thị trường. Kinh tế tư nhân thực sự trở thành động lực mạnh mẽ cho sự phát triển kinh tế xã hội ở nước ta. Phát triển kinh tế tư nhân góp phần giải phóng lực lượng sản xuất, phân công lao động xã hội, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, trước vai trò to lớn của kinh tế tư nhân đòi hỏi cần phải nhận thức một cách đúng đắn của Đảng trong thời kỳ đổi mới.
Tân Lập nằm ở phía Tây huyện Tân Thạnh, mang đặc điểm chung của địa hình vùng Đồng Tháp Mười là vùng trũng, hàng năm phải chịu lũ lụt Hàng năm khi mùa lũ về ,xã Tân Lập bị ảnh nặng nề gây thiệt hại đến cơ sở hạ tầng cũng như tài sản của nhân dân.Xã Tân Lập là thuộc diện xã vùng sâu vùng xa,Với vị trí địa lý địa phương có nhiều thế mạnh cho việc phát triển kinh tế như chăn nuôi, trồng trọt. Bên cạnh đó phù hợp trồng một số loại cây như: cây lúa nước, cây sen, cây tràm … phát triển kinh tế hộ gia đình nhằm mục đích khai thác hiệu quả tiềm năng và phát huy tốt các thế mạnh địa phương, tăng thu nhập. Mục tiêu phát triển kinh tế hộ gia đình, đặc ra thách thức cho Đảng và Nhà nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta đó là động lực thúc đẩy tôi chọn đề tài này.
Phát triển kinh tế hộ gia đình là việc áp dụng các kỹ thuật tiến bộ và mô hình canh tác thích hợp với khả năng lao động của gia đình và điều kiện đất đai, tự nhiên để sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho người dân, góp phân xây dựng quê hương đất nước giàu mạnh.
Hộ gia đình là đơn vị kinh tế cơ sở vừa là đơn vị sản xuất, vừa là đơn vị tiêu dùng, vừa là đơn vị kinh doanh, vừa là một đơn vị xã hội. Là đơn vị kinh tế nhỏ nằm trong nền kinh tế, trong thời kỳ đổi mới, kinh tế đất nước có sự phát triển đáng kể, đời sống của đại bộ phận nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tuy nhiên ở các vùng sâu vùng xa như xã Tân Lập, vẫn còn một bộ phận dân cư đang phải sống trong cảnh đói nghèo, vì vậy phát triển kinh tế hộ gia đình là biện pháp tốt, tác động trực tiếp đến người nghèo, xã nghèo giúp họ có điều kiện vươn lên xóa đói giảm nghèo, nên bản thân tôi xác định đây là vấn đề cần nghiên cứu.



1.2 Cơ sở thực tiễn nào mà nghiên cứu, phát triển kinh tế hộ gia đình
Căn cứ vào tình hình thực tế việc phát triển kinh tế hộ gia đình của xã Tân Lập, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An.
Dựa vào số lượng, chất lượng nguồn lao động, kết quả lao động tại địa phương đánh giá được mức thu nhập của từng hộ gia đình là nền tảng cho sự phát triển công nghiệp hóa - hiện đại hóa của đất nước.
1.3 Vai trò của Đoàn thanh niên đối với sự phát triển kinh tế nói chung và phát triển kinh tế hộ gia đình nói riêng.
Phát huy vai trò 5 xung kích 4 đồng hành về phát triển kinh tế xã hội bảo vệ tổ quốc của thanh niên. Xung kích lao động sáng tạo và phát triển kinh tế nâng cao nhận thức cho thanh niên về vai trò vị trí tầm quan trọng của khoa học công nghệ và kinh tế tri thức trong sự nghiệp Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa nông nghiệp. Xung kích bảo vệ tổ quốc, giữ gìn trật tự an ninh xã hội , làm tốt công tác tuyên truyền giáo dục cho thanh niên nhằm nâng cao lòng yêu nước, yêu độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội , nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng, đấu tranh chống mọi âm mưu, chiến lược “diễn biến hòa bình, bạo loạn lật đổ” của kẻ thù. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân vững mạnh xây dựng cơ sở an toàn.
Kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, quá trình này đặt ra cho nông nghiệp và nông thôn những yêu cầu mới, thời cơ cùng những thách thức gay gắt cho sự phát triển. Kinh tế thị trường phát triển đòi hỏi kinh tế thị trường cũng biến đổi theo hướng đa dạng hóa theo đó việc tổ chức sản xuất ở nông thôn cũng được cải tổ theo hướng tuân thủ các quy luật vốn có của kinh tế thị trường. Mà trước hết là quy luật quan trọng để giải quyết có hiệu quả nhất các vấn đề, sản xuất cái gì và số lượng bao nhiêu sản xuất thế nào cho ai do vậy việc phát triển kinh tế hộ gia đình ở địa phương trở thành một bộ phận thúc đẩy tích cực nền kinh tế từng bước chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bất cứ một quốc gia nào muốn tồn tại và phát triển phải quan tâm đến việc bồi dưỡng và phát huy thanh niên. Sự phát triển của thanh niên không những liên quan đến vận mệnh và tồn tại của đất nước mà còn ảnh hưởng đến tương lai của cả dân tộc, muốn phát huy vai trò của thanh niên thì Đảng và Nhà nước cần phải quan tâm đúng mức bằng những nghị quyết của Đảng và chính sách của Nhà nước làm cho thanh niên hiểu sâu sắc về công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước từ đó góp phần xây dựng địa phương và hộ gia đình ngày càng phát triển.






2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
2.1 Mục đích nghiên cứu đề tài.
Đề tài nghiên cứu nhằm tìm hiểu tốc độ phát triển kinh tế của hộ gia đình trên địa bàn xã Tân Lập, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An.
Vận dụng các kiến thức đã học để nghiên cứu và nhằm nâng cao nhận thức của bản thân về điều kiện kinh tế của địa phương và kinh tế hộ gia đình, tháo gỡ những khó khăn, từ đó có giải pháp thúc đẩy và phương hướng để làm cho kinh tế địa phương và kinh tế các hộ gia đình trên địa bàn xã ngày càng phát triển.
2.2 Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
Phát triển kinh tế hộ gia đình là mối quan tâm của Đảng và nhà nước ta hiện nay vì vậy nghiên cứu là để tìm ra phương hướng, giải pháp làm cho kinh tế hộ gia đình ngày càng phát triển và kinh tế đất nước ngày càng vững mạnh.
3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu phát triển kinh tế hộ gia đình:
3.1 Đối tượng nghiên cứu.
Lấy hộ gia đình trên địa bàn xã Tân Lập, huyện tân Thạnh, tỉnh Long An để tìm hiểu, làm đối tượng cho việc nghiên cứu phát triển kinh tế hộ.
3.2 Phạm vi nghiên cứu đề tài.
Phạm vi nghiên cứu tập trung chủ yếu vào hộ gia đình trong địa bàn xã Tân Lập - Huyện Tân Thạnh - Tỉnh Long An từ năm 2008 đến năm 2013.
4 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.
4.1 Cơ sở lý luận.
Dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về phát triển kinh tế hộ gia đình.
Đất nước ta đứng trước thời cơ và vận hội lớn nhưng cũng chứa đựng những thách thức nguy cơ để bảo đảm đưa đất nước ta phát triển và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đòi hỏi Đảng ta phải kiên trì chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục nghiên cứu vận dụng sáng tạo lý luận ấy về công cuộc đổi mới của đất nước đối với cán bộ Đảng viên học tập quán triệt chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư Tưởng Hồ Chí Minh tự trang bị cho mình năng lực nhận thức khoa học và hành động cách mạng đúng đắn, qua đó tu dưỡng rèn luyện phấn đấu cho lý tưởng tất cả vì độc lập tự do, vì hạnh phúc của nhân dân. Coi đại đoàn kết dân tộc là động lực phát triển kinh tế xã hội. Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với thực hiện công bằng xã hội hiện đại hóa đất nước.
Nhiệm vụ của toàn đảng toàn dân phát triển kinh tế nhiều thành phần phải đi đôi với củng cố kinh tế nhà nước. Đủ sức phát huy vai trò chủ đạo nhà nước định hướng và điều tiết. Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, đảm bảo an ninh quốc gia tăng cường giáo dục đạo đức Hồ Chí Minh, xây dựng nền kinh tế định hướng xã hội chủ nghĩa.

4.2 Phương pháp nghiên cứu.
Dựa trên phương pháp lý luận nghiên cứu kinh tế của chủ nghĩa duy vật biện chứng kết hợp với những phương pháp thực tiễn của xã hội như phương pháp so sánh, phương pháp thống kê,...
Chủ nghĩa duy vật biện chứng xem xét hiện tượng trong trạng thái luôn biến động không chỉ về lượng mà cả về chất, nhìn nhận sự thật trong sự tác động qua lại lẫn nhau. Nguyên nhân gây nên sự biến động của sự vật, hiện tượng là nội tại bản thân sự vật hiện tượng, tự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập.
Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng cho chúng ta cái nhìn chỉnh thể, bao quát khách quan từ đó giúp chúng ta nhìn nhận một cách đúng đắn nhất. Chủ nghĩa duy vật biện chứng với tư cách và lý luận của thế giới khách quan khoa học bao gồm hai nhóm quan niện. Đó là nhóm quan niệm duy vật thế giới nói chung và nhóm xã hội nói riêng.Vận dụng phương pháp luận trên để nghiên cứu phát triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn xã Tân Lập. Huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An.



























NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận trong việc phát triển kinh tế hộ gia đình trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
1.1 Một số vấn đề cơ bản về phát triển kinh tế hộ gia đình:
"Kinh tế gia đình" và "kinh tế hộ gia đình" là hai khái niệm có tính đồng nhất trong nhiều trường hợp, nhưng không phải khi nào cũng có thể dùng thay thế cho nhau. Việc sử dụng hai cụm từ này cần phải theo các tình huống cụ thể.
Gia đình và hộ là hai khái niệm khác biệt. Một hộ có thể chỉ bao gồm một cá nhân hay nhiều thành viên có hoặc không có quan hệ huyết thống với nhau. Hộ có thể là một gia đình hạt nhân, một gia đình mở rộng hay một đại gia đình.
Tóm lại, một hộ có thể có nhiều gia đình hoặc không có một gia đình nào cả, ngược lại, một gia đình có thể trải rộng thành nhiều hộ. Thông thường, gia đình và hộ trùng lên nhau, tạo thành tên gọi "Hộ gia đình". Mỗi hộ gia đình ở Việt Nam hiện nay đều có sổ đăng ký hộ khẩu, trong đó ghi rõ số nhân khẩu, chủ hộ và quan hệ giữa các thành viên với chủ hộ.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010 của Việt Nam xác định kinh tế hộ gia đình là một đơn vị sản xuất cơ sở, cần thiết cho quyền chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế vĩ mô, nhằm huy động mọi nguồn lực tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Kinh tế gia đình nói chung, hay kinh tế hộ gia đình nông nghiệp ở nông thôn được thực hiện quyền tự chủ và được quan tâm, khuyến khích phát triển dưới hình thức hợp tác xã và các hình thức liên kết khác. Ngoài các chính sách bảo hộ quyền và nghĩa vụ, Nhà nước còn có các chính sách khác hướng tới việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật; phổ biến, ứng dụng công nghệ mới cho sản xuất chế biến; cung cấp dịch vụ vật tư; hỗ trợ tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho kinh tế hộ gia đình và trang trại.
Kinh tế gia đình là một hình thức sản xuất có sớm, xuất hiện từ khi gia đình được hình thành. Ngày nay hình thức sản xuất này đang chịu nhiều tác động và cũng đang tự chuyển mình để trở thành một thành phần kinh tế của xã hội phát triển - xã hội công nghiệp và xã hội hậu công nghiệp. Vì lẽ đó, cần tìm hiểu quyền tồn tại để nhận diện vị trí và vai trò của nó trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Lịch sử phát triển xã hội loài người là lịch sử của sự phát triển lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội. Gắn liền với các thời kỳ phát triển là các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau. Hai phương thức sản xuất cơ bản tồn tại trong quyền phát triển, đó là sản xuất tự cung tự cấp (sản xuất tự nhiên) và sản xuất hàng hoá. Nền kinh tế nào cũng phải tham gia giải quyết các yếu tố cơ bản trong quyền sản xuất: - Sản xuất cái gì? - Sản xuất bao nhiêu? - Sản xuất như thế nào? - Phân phối sản phẩm ra sao?
Trong hình thức kinh tế tự nhiên, sản phẩm làm ra chỉ nhằm thảo mãn nhu cầu thiết yếu trong nội bộ những người sản xuất; người sản xuất tự quyết định về loại hình sản phẩm, số lượng sản phẩm. Sự trao đổi sản phẩm chỉ bó hẹp trong phạm vi những người cùng sản xuất dưới hình thức đơn giản nhất. Của cải vật chất có dư thừa đều phải thực hiện nghĩa vụ đóng góp cho cộng đồng, xã hội dưới các hình thức khác nhau của mỗi chế độ. Tính thị trường của nền kinh tế tự nhiên tuy có, nhưng hết sức mờ nhạt, chủ yếu vẫn mang tính trao đổi giản đơn. Phân công lao động xã hội trong hình thức sản xuất tự nhiên chưa phát triển, vì thế cũng chưa xuất hiện tình trạng cạnh tranh.
Trong nền kinh tế sản xuất hàng hoá, sản phẩm được sản xuất ra không chỉ để đáp ứng nhu cầu cho người sản xuất, mà còn để trao đổi nhằm thỏa mãn nhu cầu không ngừng gia tăng của người tiêu dùng, của xã hội. Sự trao đổi sản phẩm dần dần được tách ra, độc lập với quá trình sản xuất và được thực hiện thông qua thị trường. Vì lẽ đó, việc sản xuất cái gì? Sản xuất phục vụ ai? Sản xuất bao nhiêu và như thế nào? đều do cơ chế thị trường quyết định với sự can thiệp của các qui luật cạnh tranh, qui luật giá trị và giá cả thị trường.
Phát triển kinh tế hộ gia đình ở Việt Nam :
Việt Nam thực hiện bước chuyển đổi từ nền kinh tế tự cung tự cấp hàng thế kỷ nay, nhưng tiến trình diễn ra rất chậm chạp và sự chuyển tiếp là việc thực hiện nền kinh tế kế hoạch tập trung theo cơ chế bao cấp kéo dài suốt mấy chục năm qua. Cách mạng giải phóng dân tộc với hai cuộc kháng chiến trường kỳ tiến tới thống nhất tổ quốc cũng là một nguyên nhân góp phần làm giảm phát triển kinh tế đất nước. Chỉ tới thập niên cuối thế kỷ XX, khi bắt tay vào thực hiện công cuộc Đổi mới, chúng ta mới thực sự tiến hành từng bước chuyển sang nền kinh tế thị trường.
Do những đặc điểm địa lý tự nhiên và thiếu trình độ, kiến thức, kinh nghiệm quản lý nền kinh tế thị trường nên mặc dù trong những năm qua kinh tế đất nước tuy có tăng trưởng, nhưng phát triển không đồng đều giữa các vùng. Bên cạnh sự phát triển kinh tế sản xuất hàng hoá đang diễn ra ở các đô thị và các tỉnh đồng bằng, vẫn tồn tại các hình thức sản xuất còn biểu hiện của nền kinh tế tự cung tự cấp (kinh tế tự nhiên) ở các vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa.
Thực chất sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường không chỉ là sự thay đổ hình thức kinh tế vĩ mô mà còn thay đổi cả hệ thống kinh tế vi mô. Đó là sự thay đổi phương thức hoạt động, thay đổi hình thức tổ chức của các đơn vị kinh tế, trực tiếp sản xuất ra của cải, vật chất của xã hội.
Trước đây, các tổ chức kinh tế mang các tên gọi khác nhau: nhà máy, xí nghiệp, công ty, cửa hàng, hợp tác xã, cá thể, tư nhân, v.v… Ngày nay trong cơ chế thị trường, các đơn vị tham gia vào hoạt động sản xuất, kinh doanh đều được thống nhất chung với tên gọi là Việt Nam. Hiện nay ở nước ta có các loại hình doanh nghiệp với các thành phần chủ sở hữu như sau: cá nhân, nhóm kinh doanh, doanh nghiệp tư nhân, công ty (công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phẩn), hợp tác xã, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ gia đình.
Kinh tế hộ gia đình là một loại hình kinh tế tương đối phổ biến và được phát triển ở nhiều nước trên thế giới. Nó có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển kinh tế, nhất là trong nông nghiệp. ở Việt Nam, kinh tế hộ gia đình lại càng có ý nghĩa to lớn, bởi vì nước ta bước vào nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hoạt động theo cơ chế thị trường trên nền tảng gần 80% dân số đang sinh sống ở nông thôn và điểm xuất phát để tạo cơ sở vật chất tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa lại đi từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, quản lý theo kế hoạch hóa tập trung, bao cấp.
Mặc dù không phải là một thành phần kinh tế nhưng kinh tế hộ gia đình là một loại hình để phân biệt với các hình thức tổ chức kinh tế khác. Một trong các thành viên của kinh tế hộ gia đình đồng thời là chủ hộ. Trong hoạt động kinh tế, gia đình có thể tiến hành tất cả các khâu của quá trình sản xuất và tái sản xuất. Chủ hộ điều hành toàn bộ mọi quá trình sản xuất kinh doanh và chịu trách nhiệm vô hạn về mọi hoạt động của mình. Ở nước ta, kinh tế hộ gia đình phát triển chủ yếu ở nông thôn, thường gọi là kinh tế hộ gia đình nông dân, ở thành thị thì gọi là các hộ tiểu thủ công nghiệp. Hiện nay, tại một số địa phương đã hình thành các trang trại gia đình có quy mô sản xuất và kinh doanh tương đối lớn. Xu hướng này đang có chiều hướng phát triển và mở rộng ra trên phạm vi toàn quốc.
Các cá nhân và nhóm kinh doanh trong các lĩnh vực như vận tải, xây dựng, thương mại dịch vụ và các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, kinh doanh… trên thực tế là các hoạt động kinh tế hộ gia đình và được điều chỉnh theo Nghị định số 66/HĐBT ngày 2/3/1992. Chủ hộ chịu trách nhiệm vô hạn về vốn và kết quả kinh doanh của mình, mặt khác Nhà nước cũng có những chính sách tạo điều kiện thuận lợi để hộ kinh doanh có số vốn phù hợp với qui mô để hộ gia đình có thế chuyển thành doanh nghiệp đăng ký kinh doanh và các hoạt động theo Luật doanh nghiệp đã được Quốc hội khóa X kỳ họp thứ 5 thông qua vào tháng 6 năm 1999. Theo số liệu thống kê, tính đến năm 2000 nước ta có khoảng 38.000 doanh nghiệp đăng ký hoạt động, bao gồm cả doanh nghiệp tư nhân và hơn 1,5 triệu hộ kinh doanh cá thể. Các loại hình doanh nghiệp này bao gồm nhiều ngành nghề thu hút nhiều lao động, sản xuất ra nhiều sản phẩm hàng hoá phục vụ tiêu dùng và xuất khẩu, tăng nguồn thu ngân sách nhà nước; góp phần làm cho nền kinh tế phát triển sôi động và linh hoạt hơn, khai thác được nguồn lực còn tiềm ẩn trong dân cư phục vụ cho chiến lược phát triển kinh tế xã hội đất nước.
Như trên đã phân tích, kinh tế hộ gia đình tập trung chủ yếu ở khu vực sản xuất nông nghiệp và chiếm tới 2/3 lực lượng lao động toàn xã hội. Vì vậy, chính sách khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình của Đảng và Nhà nước ta thực chất là việc thực hiện phát triển một cách hợp lý các hình thức sản xuất và kinh doanh trong nông nghiệp. Đây là loại hình kinh tế phổ biến nhất ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Tùy theo đặc điểm, tính chất của từng khu vực, từng địa bàn, cần phân loại các hộ gia đình theo trình độ sản xuất hàng hoá, khả năng tự chủ trong kinh doanh, mức độ đa dạng hóa hoạt động kinh tế để có những biện pháp hỗ trợ thích hợp. Hộ gia đình có nhiều ưu thế, nhưng cũng có nhiều khó khăn, hạn chế về nhiều mặt. Việc tác động của Nhà nước, kết hợp với sự liên kết hỗ trợ hướng dẫn của các doanh nghiệp nhà nước, các hợp tác xã… là rất cần thiết.
Xem xét đến vấn đề kinh tế nói chung, hay kinh tế hộ gia đình nói riêng không thể không đề cập đến vấn đề tiêu dùng. Tiêu dùng là hành vi tất yếu và thường xuyên của con người nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất và tinh thần của cá nhân, cộng đồng, của toàn xã hội. Tiêu dùng vừa là mục tiêu vừa là tiền đề của sản xuất và tái sản xuất xã hội. Mức độ tiêu dùng có thước đo và được chi phối bởi yếu tố thu nhập thực tế tính theo đầu người. Các nước phương Tây có nền kinh tế phát triển, tích lũy tư bản, phúc lợi xã hội và thu nhập cá nhân cho phép đủ điều kiện đáp ứng nhu cầu tiêu dùng xã hội phát triển cao.
Do kết quả của sự chi phối, giao lưu kinh tế quốc tế trong việc thực hiện chính sách mở cửa, những năm qua nền kinh tế thị trường đa thành phần ở nước ta có những bước tăng trưởng đáng kể, nhưng đồng thời cũng kéo theo sự gia tăng nhu cầu tiêu dùng cả về vật chất lẫn tinh thần. Sự gia tăng về nhu cầu tiêu dùng là quy luật tự nhiên và đáng khuyến khích. Tuy nhiên, trong trường hợp kinh tế kém phát triển như ở nước ta, chưa thể có mức tiêu dùng bình quân cao được.
Hiện nay, có hiện tượng một bộ phận hộ gia đình thu nhập cao, tập trung ở thành thị, mức sống và nhu cầu tiêu dùng chênh lệch cao gấp nhiều lần so với những hộ dân sống ở nông thôn. Đây là vấn đề cần được quan tâm giải quyết để thực hiện tính công bằng trong phát triển kinh tế - xã hội theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Xóa đói giảm nghèo, tình trạng thất nghiệp, phân công lao động và giải quyết việc làm, thực tế hộ gia đình cũng là những vấn đề cần được đề cập trong nghiên cứu về các chính sách liên quan tới lĩnh vực Gia đình.








1.2 Vai trò tầm quan trọng của phát triển kinh tế hộ gia đình ở nông thôn trong giai đoạn hiện nay
1.2.1 Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển kinh tế hộ gia đình.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế là di sản vô giá Bác Hồ để lại cho Đảng và nhân dân ta, bao gồm những nội dung chủ yếu về mục đích kinh tế, về vị trí, vai trò của nông nghiệp, về nền kinh tế nhiều thành phần... Tư tưởng Hồ Chí Minh về kinh tế là một bộ phận tư tưởng của Người về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
Bản chất đặc trưng của chủ nghĩa xã hội được thể hiện tập trung ở mục tiêu của nó là nâng cao đời sống nhân dân. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm làm sao cho dân ăn no, mặc ấm, được học hành, chữa bệnh, giải trí... Ngày 24/4/1956, trong Lời bế mạc Hội nghị lần thứ 9 (mở rộng) của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Người căn dặn: Phải luôn luôn nhớ rằng: điều quan trọng bậc nhất trong kế hoạch kinh tế của chúng ta hiện nay là nhằm cải thiện dần đời sống của nhân dân.... Đó là mục đích kinh tế, là nhiệm vụ của Đảng và Chính phủ, đồng thời là thước đo tính đúng đắn, ý nghĩa cách mạng của đường lối, chính sách và biện pháp kinh tế. Người nhấn mạnh Chính sách của Đảng và Chính phủ là phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay mấy cũng không thực hiện được. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay
Làm cho dân có ăn.
Làm cho dân có mặc.
Làm cho dân có chỗ ở.
Làm cho dân có học hành.
Rõ ràng, Chủ tịch Hồ Chí Minh lấy mục đích nâng cao đời sống cho nhân dân làm trung tâm chi phối mọi hoạt động kinh tế của Đảng và Chính phủ.
Trong tư duy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nông nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền kinh tế nước ta, cũng như đối với việc nâng cao đời sống của nhân dân. Trong Thư gửi điền chủ nông gia Việt Nam, ngày 19/4/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: Việt Nam là nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế của ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh!.
Vào những năm đất nước bước vào giai đoạn chuẩn bị cho nhiệm vụ thực hiện các kế hoạch dài hạn công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định Muốn phát triển công nghiệp, phát triển kinh tế nói chung, phải lấy việc phát triển nông nghiệp làm gốc, làm chính.
Trong Bài nói với cán bộ ở Trung ương về xã tham gia cải tiến quản lý hợp tác xã, cải tiến kỹ thuật (đăng trên báo Nhân Dân, số 3300, ngày 9/4/1963), Người nói ... Có gì sung sướng bằng được góp phần đắc lực vào công cuộc phát triển nông nghiệp, nền tảng để phát triển kinh tế xã hội chủ nghĩa. Với tư tưởng coi trọng nông nghiệp trong nền kinh tế nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện phẩm chất một nhà lãnh đạo am hiểu sâu sắc thực tiễn của đất nước mình. Lấy nông nghiệp làm chính và Phải bắt đầu từ nông nghiệp đã trở thành quy luật trong nhiệm vụ kinh tế - xã hội giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đối với những nước nông nghiệp lạc hậu như nước ta.
Trong Chính sách kinh tế mới, Lê Nin chủ trương phải bắt đầu từ kinh tế nông dân, phải chấn hưng nông nghiệp. Lê Nin đã coi nông nghiệp như mũi đột phá đầu tiên để mở mang sản xuất, tạo ra những tiền đề cần thiết cho phát triển kinh tế của đất nước.
Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V mới xác định nông nghiệp là mặt trận hàng đầu. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI và VII đã cụ thể hóa tư tưởng đó thành chủ trương: tập trung sức phát triển nông nghiệp, thực hiện ba chương trình kinh tế lớn (lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu)... Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, tư tưởng cơ bản trên được thể hiện thành chương trình phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn, chương trình số 1 trong số 11 chương trình và lĩnh vực phát triển trọng điểm của đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt nông nghiệp trong mối quan hệ hữu cơ với các ngành kinh tế khác và xem nó như một bộ phận cấu thành trong chỉnh thể nền kinh tế quốc dân. Theo Người, công nghiệp và nông nghiệp giúp đỡ lẫn nhau và cùng phát triển như hai chân đi khỏe và đi đều thì tiến bước sẽ nhanh và chóng đi đến mục tiêu.
Quan điểm đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện rất rõ trong chính sách nền kinh tế nhiều thành phần. Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, tháng 11/1945, trong bài Toàn dân kháng chiến đăng trên báo Cứu quốc, số 83, ngày 5/11/1945. Người kêu gọi: Các nhà giàu có mau mau góp vốn lại mở các công ty kinh doanh công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, tài chính, giao thông để tích cực tăng gia sinh sản, lưu thông buôn bán.
Từ năm 1945-1954, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần nhằm phát triển kinh tế, phục vụ cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Năm 1953, trong sách Thưởng thức chính trị ký bút danh Đ.X, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta còn tồn tại nhiều thành phần như sau: Kinh tế quốc doanh; kinh tế địa chủ phong kiến; kinh tế hợp tác xã, hội đoàn đổi công; kinh tế cá nhân; kinh tế tư bản tư nhân; kinh tế tư bản quốc gia. Người còn chỉ rõ: Kinh tế tư bản quốc gia là Nhà nước hùn vốn với tư nhân để kinh doanh và do Nhà nước lãnh đạo.... Phát triển các thành phần kinh tế vừa để đáp ứng lợi ích của các giai cấp, tầng lớp trong xã hội, đẩy mạnh sản xuất, vừa nhằm đoàn kết tất cả các lực lượng trong một mặt trận dân tộc thống nhất phục vụ cho cuộc kháng chiến.
Trong Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ II Quốc hội khóa I nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định sự tồn tại tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần: Đối với người làm nghề thủ công và lao động riêng lẻ khác, Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất của họ, ra sức hướng dẫn và giúp đỡ họ cải tiến cách làm ăn, khuyến khích họ tổ chức hợp tác xã sản xuất theo nguyên tắc tự nguyện. Đối với những nhà tư sản công thương, Nhà nước không xóa bỏ quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của họ; mà ra sức hướng dẫn họ hoạt động nhằm làm lợi cho quốc kế dân sinh, phù hợp với kế hoạch kinh tế của Nhà nước.
Đã có thời gian dài, do nóng vội, duy ý chí, chúng ta đã xóa đi các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, và tưởng rằng làm như thế sẽ sớm có chủ nghĩa xã hội, mà không hiểu rằng làm như vậy sẽ triệt tiêu những mặt tích cực của các thành phần kinh tế. Đất nước ta đã trải qua một cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng.
Sự hình thành, tồn tại và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội - theo Lênin - là một tất yếu lịch sử. Và không thể dùng ý chí chủ quan hay sức mạnh hành chánh mà xóa bỏ những thành phần kinh tế đó.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về nền kinh tế nhiều thành phần, Đại hội VI của Đảng với đường lối đổi mới toàn diện, đã chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần tạo điều kiện cho lực lượng sản xuất phát triển. Nghị quyết Đại hội VII của Đảng còn chỉ rõ Chúng ta chủ trương thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội VII còn xác định 5 thành phần kinh tế ở nước ta là Kinh tế quốc doanh, kinh tế tập thể, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế tư bản Nhà nước,... trong đó, thành phần kinh tế quốc doanh thực hiện vai trò chủ đạo và chức năng của một công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước. Đại hội VIII của Đảng một lần nữa khẳng định Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần.
Vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về nền kinh tế nhiều thành phần, sau hơn 27 năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu rất quan trọng.








1.2.2 Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế hộ gia đình.
Qua 27 năm, sự nghiệp đổi mới của Việt Nam đạt được những thành tựu như ngày hôm nay là nhờ có Đảng lãnh đạo và do Đảng đã luôn luôn chủ động, sáng tạo trong đổi mới tư duy về kinh tế. Đường lối và chính sách đổi mới từ Đại hội VI (1986) của Đảng đã đặt cơ sở, nền tảng ban đầu cho giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ của nền kinh tế nước ta. Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc, trong đó có đổi mới tư duy về kinh tế, đột phá khâu cho đổi mới các lĩnh vực tiếp theo. Tuy nhiên, trong giai đoạn phát triển mới của đất nước đòi hỏi phải xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế, do vậy chúng ta cần phải tiếp tục đổi mới mạnh hơn nữa tư duy kinh tế cho phù hợp với điều kiện của đất nước, xu hướng phát triển của thế giới và của thời đại.
Bước ngoặt trong đổi mới tư duy kinh tế của Đảng là chúng ta chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Thành tựu nổi bật nhất trong bước khởi đầu đổi mới tư duy kinh tế là phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước. Quan điểm về mô hình nền kinh tế trong thời kỳ quá độ đã thay đổi căn bản và đến nay đã được xác lập, đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ có hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể mà tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Qua quá trình phát triển nhận thức, cũng như tư duy lý luận về các thành phần kinh tế ngày một hoàn chỉnh, đến Đại hội X của Đảng, nền kinh tế nước ta được xác lập gồm 5 thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư hữu tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng không chỉ dừng lại ở việc xác định số lượng các thành phần kinh tế tồn tại trong nền kinh tế, mà còn xác lập đúng vị trí, vai trò của từng thành phần kinh tế trong nền kinh tế quốc dân. Có thể nói, sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng về các thành phần kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt, nó tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cá nhân, tổ chức trong toàn xã hội phát huy mọi tiềm năng, sáng tạo, tạo ra sức mạnh to lớn cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, đồng thời nó là động lực to lớn cho chúng ta phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới tư duy kinh tế về phát triển nền kinh tế nhiều thành phần còn góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thông qua tính dân chủ trong hoạt động kinh tế, mọi cá nhân đều có quyền tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh một cách bình đẳng theo pháp luật.
Qua 27 năm đổi mới, tư duy về kinh tế thị trường của Đảng ta ngày càng hoàn thiện hơn. Nếu ở Đại hội VI, Đảng ta mới khẳng định sự cần thiết phải sử dụng quan hệ hàng hóa - tiền tệ dưới chủ nghĩa xã hội thì đến Đại hội VII và Đại hội VIII Đảng đã khẳng định cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội IX tiếp tục đánh dấu thêm một bước phát triển mới trong đổi mới tư duy lý luận kinh tế của Đảng, đã xác định: Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội X làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, đó là nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại hình thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh. Nền kinh tế không chỉ độc tôn bàn tay kế hoạch của Nhà nước, mà phải được vận hành bởi hai bàn tay thị trường và Nhà nước. Thực hiện cơ chế thị trường đã khuyến khích sự làm giàu hợp pháp, tháo gỡ sự kìm hãm sản xuất và lưu thông. Cơ chế thị trường cũng đã góp phần phát huy lợi thế so sánh giữa các vùng, các khu vực trong nước, giữa thành thị và nông thôn, góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi, cải thiện đời sống nhân dân. Sự phá bỏ độc quyền, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế, các doanh nghiệp phát huy tính năng động, sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Quá trình đổi mới hội nhập kinh tế quốc tế thật sự bắt đầu cùng với sự nghiệp đổi mới được Đại hội VI của Đảng khởi xướng. Đến Đại hội VII, chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế được khẳng định là chủ trương lớn, chủ đạo của đường lối đổi mới của nước ta. Đại đội IX của Đảng đã khẳng định chủ trương: Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả và bền vững. Đổi mới tư duy kinh tế của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế đã đem lại thành tựu to lớn cho đất nước. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ hợp tác với nhiều tổ chức kinh tế, tiền tệ thế giới như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB); gia nhập Hiệp hội các nước Đông - Nam Á (ASEAN) năm 1995 và Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1996; tham gia sáng lập diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) năm 1996; gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC) năm 1998 và đặc biệt năm 2007 trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Việt Nam đã đẩy lùi được chính sách bao vây, cô lập về chính trị, cấm vận về kinh tế của các thế lực thù địch. Hiện chúng ta đã có quan hệ thương mại với hơn 170 nước và vùng lãnh thổ, đã ký hiệp định thương mại với gần 100 quốc gia. Hầu hết các nước trên thế giới, kể cả những nước đã từng là thù địch chống nước ta, đều coi Việt Nam là đối tác tin cậy, là thị trường giàu tiềm năng và ổn định, là nơi đầu tư hết sức lý tưởng cho các nhà đầu tư nước ngoài, không ít quốc gia lớn, có tiềm lực kinh tế xem Việt Nam là đối tác kinh tế chiến lược. Những thành tựu đạt được trong đổi mới kinh tế của Đảng trong thời gian qua là hết sức to lớn, có thể ví như một cuộc cách mạng thật sự về kinh tế đối với nước ta. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những thành tựu bước đầu, để đạt được mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh việc tiếp tục đổi mới mạnh mẽ lý luận về kinh tế của Đảng đang là đòi hỏi khách quan với các yếu tố cơ bản sau:
Một là, sự phát triển của nền kinh tế tri thức. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức là sử dụng có hiệu quả tri thức và những sáng tạo mới của con người để đẩy nhanh tốc độ đổi mới sản phẩm và công nghệ. Dưới quan điểm về kinh tế phát triển, kinh tế tri thức là kinh tế trong đó sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức, là động lực chủ yếu nhất của tăng trưởng, tạo ra của cải, việc làm trong tất cả các ngành kinh tế và là nền kinh tế mở ra khả năng phát triển bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống. Nền kinh tế tri thức là điều kiện thuận lợi, là phương tiện để các quốc gia tăng tốc phát triển kinh tế. Sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức, một mặt tạo cơ hội cho chúng ta tiếp cận những thành tựu của nhân loại, mặt khác nó buộc chúng ta phải đổi mới tư duy trong ban hành và tổ chức thực hiện chính sách kinh tế.
Hai là, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế là điều kiện hết sức thuận lợi để các quốc gia đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đồng thời cũng tạo nên những thách thức không nhỏ đối với các quốc gia. Toàn cầu hóa tạo điều kiện giao lưu, hợp tác giữa các quốc gia, trên cơ sở đó các quốc gia có thể tiếp thu những thành tựu của văn minh nhân loại để phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội.. Toàn cầu hóa tạo điều kiện thuận lợi cho các quốc gia thực hiện công cuộc cải cách của mình, đồng thời cũng là yêu cầu, sức ép đối với các quốc gia trong việc đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh tế, đặc biệt là các chính sách và phương thức quản lý vĩ mô. Toàn cầu hóa tạo dựng các nhân tố mới và điều kiện mới cho sự phát triển của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế trên cơ sở trình độ phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất, là điều kiện để khơi thông các nguồn lực trong và ngoài nước, mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và các kinh nghiệm quản lý. Tuy nhiên toàn cầu hóa cũng tạo ra nhiều thách thức không nhỏ đối với các quốc gia, nhất là những quốc gia đang phát triển. Do vậy, để khỏi bị gạt ra ngoài lề phát triển của thế giới và hội nhập kinh tế quốc tế thành công thì chúng ta phải tiếp tục đổi mới trong nhận thức, trong tư duy về kinh tế.
Ba là, năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm còn yếu. Một trong những thách thức lớn nhất đối với Việt Nam hiện nay trong hội nhập kinh tế quốc tế là sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, sản phẩm và quốc gia còn yếu, sức cạnh tranh chủ yếu dựa vào lợi thế lao động rẻ và tài nguyên.. Sự đổi mới không theo kịp với xu hướng phát triển của thời đại đã làm kìm hãm phát triển của doanh nghiệp và quốc gia. Thời gian qua, chúng ta chỉ tập trung vào các nhân tố bên trong, dựa vào nội lực là chính, chưa thật sự đánh giá đúng vai trò, cũng như sức ép từ các nhân tố bên ngoài trong phát triển kinh tế. Doanh nghiệp chưa thật sự quan tâm đến hội nhập, chưa thật sự chủ động thay đổi, cách thức tổ chức cho phù hợp với điều kiện mới của môi trường cạnh tranh quốc tế. Trong hơn 25 năm đổi mới, mặc dù chúng ta đã đạt được những thành tựu kinh tế hết sức ấn tượng, song khách quan mà nói nền kinh tế nước ta vẫn đang trong tình trạng lạc hậu, đổi mới tư duy về kinh tế chưa theo kịp với sự biến đổi nhanh chóng của thời đại, nhất là những thay đổi của nhân loại mang tính đột phá như công nghệ thông tin, kinh tế tri thức, công nghệ sinh học, mô hình phát triển kinh tế. Việt Nam cũng đã có những thứ hạng đáng kể về xuất khẩu một số mặt hàng và thu hút đầu tư, song nếu phân tích, đánh giá một cách khách quan thì chưa thật sự tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của đất nước, chúng ta cần phải tiếp tục đổi mới để tiếp tục cải thiện vị thế của mình trong cộng đồng kinh tế quốc tế.
Bốn là, những bất cập của thực tiễn cuộc sống. Sự phát triển kinh tế trong thời gian qua, đặc biệt là sự tăng lên mạnh mẽ số lượng các doanh nghiệp và huy động vốn đầu tư đang gặp những rào cản. Đó là tình trạng ban hành chính sách kinh tế chưa phù hợp với thực tế, còn có những bất cập trong việc ban hành và thực thi chính sách, nhất là chính sách đất đai và tín dụng. Môi trường kinh doanh chưa thật sự thuận lợi. Hiện nay, tiềm lực nội tại của nền kinh tế nước ta vẫn còn rất lớn, nguồn vốn trong dân còn nhiều nhưng chưa được sử dụng vào đầu tư phát triển kinh tế. Trong một số khu vực kinh tế đã có dấu hiệu chững lại. Sự phát triển kinh tế đang kéo theo nhiều vấn đề cần phải giải quyết như khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn, tài nguyên và môi trường bị ảnh hưởng nặng nề, năng suất lao động và hiệu quả kinh tế còn thấp, chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao...
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà ở đó các quan hệ kinh tế đều được thực hiện trên thị trường, thông qua quá trình trao đổi mua bán. Quan hệ hàng hóa - tiền tệ phát triển đến một trình độ nhất định sẽ đạt đến kinh tế thị trường. Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển của kinh tế hàng hóa dựa trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất.
Ở Việt Nam, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những điều kiện chung để kinh tế hàng hóa xuất hiện vẫn còn tồn tại. Do đó, sự tồn tại kinh tế hàng hóa ở nước ta là một tất yếu khách quan. Những điều kiện chung để kinh tế hàng hóa xuất hiện và tồn tại là:
- Phân công lao động xã hội là cơ sở tất yếu của nền sản xuất hàng hóa vẫn tồn tại và ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu ở nước ta hiện nay. Sự phát triển của phân công lao động xã hội thể hiện ở chỗ các ngành nghề ở nước ta ngày càng đa dạng, phong phú, chuyên môn hóa sâu.
- Sự tồn tại và phát triển của nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế khác nhau tạo nên sự tách biệt kinh tế giữa các chủ thể kinh tế độc lập cũng là điều kiện tất yếu cho sự tồn tại và phát triển kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường ở nước ta.
Nước ta trong thời kỳ quá độ muốn phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất thì phải xã hội hóa, chuyên môn hóa lao động. Quá trình ấy chỉ có thể diễn ra một cách thuận lợi trong một nền kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường.
Chỉ có phát triển kinh tế thị trường mới làm cho nền kinh tế nước ta phát triển năng động. Trong cơ chế kinh tế cũ, vì coi thường quy luật giá trị, cạnh tranh, cung cầu nên các cơ sở kinh tế cũng thiếu sức sống và động lực để phát triển sản xuất. Sử dụng kinh tế thị trường là sử dụng quy luật giá trị, cạnh tranh, cung cầu, buộc mỗi người sản xuất tự chịu trách nhiệm về hàng hóa do mình làm ra. Chính vì thế mà nền kinh tế trở nên sống động.
Phát triển nền kinh tế thị trường là phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, cũng có nghĩa là sản phẩm xã hội ngày càng phong phú, đáp ứng nhu cầu đa dạng của mọi người. ở nông thôn nước ta, sự phát triển kinh tế thị trường và việc tăng tỷ lệ hàng hóa nông sản đã làm cho hàng hóa bán ra của nông dân nhiều lên, thu nhập tăng lên, đồng thời các ngành nghề ở nông thôn cũng ngày một phát triển, tạo ra cho nông dân nhiều việc làm. Đó cũng là điều đã diễn ra ở thành phố, đối với những người lao động thành thị.
Phát triển kinh tế thị trường đòi hỏi phải đào tạo ngày càng nhiều cán bộ quản lý và lao động có trình độ cao. Muốn thu được lợi nhuận, họ cần phải vận dụng nhiều biện pháp để quản lý kinh tế, thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, hạ giá thành sản phẩm, làm cho sản xuất phù hợp với nhu cầu của thị trường, nâng cao hơn nữa hiệu quả kinh tế.
Như vậy, phát triển kinh tế thị trường đối với nước ta là một tất yếu kinh tế, một nhiệm vụ kinh tế cấp bách để chuyển nền kinh tế lạc hậu thành nền kinh tế hiện đại, hội nhập vào sự phân công lao động quốc tế. Đó là con đường đúng đắn để phát triển lực lượng sản xuất, khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước để thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường không đối lập với các nhiệm vụ kinh tế - xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà trái lại thúc đẩy các nhiệm vụ đó phát triển mạnh mẽ hơn.
Thực tiễn những năm đổi mới chỉ ra rằng, việc chuyển sang mô hình kinh tế thị trường của Đảng ta là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ mô hình kinh tế đó, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước đi đôi với thu hút vốn và kỹ thuật nước ngoài, giải phóng được năng lực sản xuất trong xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, góp phần quyết định bảo đảm nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hằng năm cao. Hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội được tăng cường. Đời sống của nhân dân được cải thiện, nâng cao tích luỹ xã hội, tạo tiền đề cho sự phát triển trong tương lai CNXH và cơ cấu kinh tế nhiều thành phần trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam.
2. Thực trạng và giải pháp tăng cường sự phát triển kinh tế trên địa bàn Xã Tân Lập - Huyện Tân Thạnh - Tỉnh Long An.
2.1 Thực trạng phát triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn xã Tân Lập - Huyện Tân Thạnh - Tỉnh Long An hiện nay.
2.1.1 Đặc điểm địa bàn xã Tân Lập, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An:
Xã Tân Lập nằm về phía Tây của huyện Tân Thạnh tỉnh Long An, cách thị trấn Tân Thạnh 12km theo tỉnh lộ 837. Diện tích tự nhiên của xã là: 4.341,58 ha, được chia thành 6 ấp: ấp Cây Sao, Trương Công Ý, Kênh Nhà Thờ, Bằng Lăng, Kênh Đạo và Hải Hưng.
Ranh giới hành chính tiếp giáp
- Phía Bắc giáp xã Tân Lập huyện Mộc Hóa;
- Phía Nam giáp xã Tân Ninh huyện Tân Thạnh;
- Phía Đông Nam giáp xã Nhơn Ninh huyện Tân Thạnh;
- Phía Đông giáp xã Nhơn Hòa huyện Tân Thạnh;
- Phía Tây giáp xã Nhơn Hòa Lập huyện Tân Thạnh;
1. Quy hoạch và hiện trạng quy hoạch của xã:
- Những quy hoạch đã có: Quy hoạch sử dụng đất đai đến năm 2015 và định hướng 2020; Kế hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông-lâm-thuỷ sản và phát triển kinh tế nông thôn đến năm 2015; hiện xã đang triển khai thực hiện hầu hết các chỉ tiêu cơ bản.
- Nhiệm vụ quy hoạch xã nông thôn mới của xã đã được UBND huyện Tân Thạnh phê duyệt vào tháng 01/2013; Đồ án quy hoạch được UBND huyện phê duyệt vào tháng 6/2013.
(So tiêu chí nông thôn mới của tỉnh: Đạt )
2. Giao thông:
* Giao thông bộ:
- Tân Lập có tỉnh lộ 837 đi qua, khoảng cách từ trung tâm xã đến Quốc lộ gần nhất là 12km (Quốc lộ 62). Toàn xã hiện có 35 km đường giao thông bộ, được trãi đá sỏi, đá 0 x 4 và đal hoá, một số ít là đường đất. Các tuyến đường liên ấp, liên xã đa phần đường kết hợp bờ kênh thủy lợi nên dễ bị sạt lở và hệ thống cầu, cống không phù hợp với cấp đường, chủ yếu phục vụ xe hai bánh và người đi bộ. Riêng các tuyến đường liên xã đảm bảo xe bốn bánh lưu thông qua lại, hệ thống bến bãi đường thủy chỉ dựa vào địa hình tự nhiên, vì vậy giao thông đường bộ và đường thủy của xã còn nhiều khó khăn, hạn chế.
- Có tỉnh lộ 837 đi qua địa bàn xã nền lộ 9m, mặt lộ 7m (đạt chuẩn NTM); lộ Bằng Lăng có nền 10,5m, mặt lộ 9 m trải sỏi đỏ nối liền tỉnh Lộ 837 qua xã Tân Ninh, lộ 7 Mét có nền là 9m, mặt lộ 6m trải sỏi đỏ đi qua xã Kiến Bình, Nhơn Hòa, Tân Lập, Nhơn Hòa Lập, Hậu Thạnh Đông, Bắc Hòa có nhiều tiềm năng khai thác để phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội khu vực.
* Giao thông thuỷ:
- Hệ thống giao thông thủy chính của xã là kênh Dương Văn Dương, kênh Bảy Ngàn, kênh Bằng Lăng, Kênh Đạo, kênh 7m và một số con kênh khác. Các tuyến kênh này kết hợp với nhau tạo cho Tân Lập có hệ thống giao thông thủy thuận lợi, tạo thành mạng lưới trung chuyển hàng hóa, giao lưu trao đổi với các xã trong và ngoài huyện. Nhưng đa số bị bồi lắng qua nhiều năm sử dụng nên chưa đảm bảo đáp ứng được nhiều nhu cầu về tưới tiêu và giao thông thủy. Còn một số khu vực chưa có đê bao nên việc sản xuất phụ thuộc vào thiên nhiên, lũ về sớm có nguy cơ thiệt hại nặng trong sản xuất.
So với tiêu chí nông thôn không đạt. Đạt khoảng 70% tiêu chí.
3. Thuỷ lợi:
-Trong những năm gần đây, xã đang tập trung công tác nạo, vét, đào mới kênh ở những khu vực bức xúc, để đáp ứng nhu cầu phục vụ cho công tác sản xuất, bên cạnh đó xã còn tận dụng việc nạo, vét, đào mới các tuyến kênh làm ô đê bao lửng khép kín, mở rộng trạm bơm điện.
- Tuy nhiên, so với tiêu chí nông thôn mới cơ bản đạt nhưng để hoàn thiện phục vụ tốt cho sản xuất nông nghiệp cần phải tiếp tục đầu tư, tu sửa để mang lại hiệu quả cao hơn cho người dân sản xuất nông nghiệp, một số diện tích canh tác của xã được nâng lên 3 vụ, cải thiện đời sống nhân dân. Trong tương lai cần phải tiếp tục nạo vét và mở rộng thêm công trình thủy lợi hiện hữu, xây dưng khu đê bao, ô đê bao khép kín phục vụ theo nhu cầu sản xuất hiện nay.
So với tiêu chí nông thôn không đạt. Đạt khoảng 85% tiêu chí.
4. Điện:
Trong những năm qua thực hiện Chương trình điện khí hóa nông thôn, hạ tầng cơ sở ngành điện đã được tăng cường đảm bảo cung cấp điện cho 98% số dân cư trong xã được sử dụng thường xuyên, như sau:
Năm 2010 được huyện đầu tư hạ thế điện phục vụ hoạt động cho trạm bơm điện Bằng Lăng, từ đó đã giúp cho xã Tân Lập thuận lợi cho việc phát triển hiện đại hóa nông nghiệp;
- Đường dây trung thế, hạ thế có 08 tuyến với tổng chiều dài 39,307km.
- Có 30 trạm biến áp với công suất 1.235 KVA.
Bên cạnh đó, việc cấp điện cho sản xuất và chiếu sáng công cộng cũng là một vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu, đầu tư trong thời gian tới.
So với tiêu chí nông thôn mới chưa đạt. Đạt khoảng 93,90% tiêu chí.
5. Trường học:
Các điểm trường đáp ứng được 100% nhu cầu học tập.
Hiện trạng công trình giáo dục xã Tân Lập gồm có :
+ Trường Mầm Non: 01 trường (2 điểm)
+ Trường tiểu học: 02 trường (4 điểm)
+ Trường trung học cơ sở: 01 trường (2 điểm)
So với tiêu chí nông thôn mới, chưa đạt. Đạt khoảng 75% tiêu chí.
6. Cơ sở vật chất văn hoá:
Hiện xã chưa có nhà văn hóa, trung tâm thể thao. Đã có nhà sinh hoạt cộng đồng ở 3/6 ấp, xây dựng theo tiêu chuẩn nhà cấp 4, có diện tích xây dựng khoảng 70 m2/nhà được sử dụng trong các cuộc họp dân, tuyên truyền, tập huấn chuyển giao tiến bộ kỹ thuật ở ấp. Tuy nhiên, mới chỉ có diện tích khu nhà, cơ sở vật chất, trang thiết bị còn thiếu.
So với tiêu chí nông thôn mới, chưa đạt. Đạt khoảng 33,3% tiêu chí.
7. Chợ:
Xã có 01 chợ Bằng Lăng thuộc ấp Kênh Nhà Thờ, xã đã tiến hành lập các thủ tục kêu gọi giao mặt bằng cho đơn vị đầu tư xây dựng chợ theo chuẩn mới, quy mô khoản 4.500m2.
So với tiêu chí nông thôn mới, chưa đạt. Đạt khoảng 50%.
8. Thông tin và truyền thông:
Có 01 bưu điện văn hóa xã nằm gần UBND xã thuộc ấp Kênh Nhà Thờ, quy mô diện tích xây dựng 220m2, 01 trệt và 01 lầu. Có internet đến các ấp.
So với tiêu chí nông thôn mới, đạt.
9. Nhà ở dân cư:
Dân cư của xã sống tập trung ven theo các tuyến sông và ven các tuyến lộ, một số sống phân tán trong đồng ruộng, có tổng số 1.734 nhà, trong đó: nhà đạt chuẩn 1200 nhà chiếm 69%, nhà không đạt chuẩn 534 nhà chiếm 31%.
So với tiêu chí nông thôn mới chưa đạt. Đạt khoảng 90% tiêu chí.
10. Thu nhập
Thu nhập bình quân đầu người của xã đạt 26 triệu đồng/người (2012).
So với tiêu chí nông thôn mới, đạt.
11. Hộ nghèo
Trong các năm qua chương trình giảm nghèo và giải quyết việc làm của xã đã thật sự thành phong trào hành động cách mạng quần chúng được diễn ra sôi nổi, liên tục và rộng khắp. Hiện hộ nghèo xã có 93 hộ nghèo đạt 5,36% (93/1734)
So với tiêu chí nông thôn mới, đạt.
12. Tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên:
Hiện toàn xã có 4.682 lao động, trong đó lao động trong ngành nông nghiệp chiếm 90% (4.213 lao động); Công nghiệp, dịch vụ chiếm 4 % (188 lao động), lao động khác chiếm 6%.
Trong số lao động của xã, số lao động có trình độ tiểu học chiếm 25%; Trung học cơ sở chiếm 45% và trung học phổ thông chiếm 30%.
Việc đào tạo, bồi dưỡng lao động trong thời gian qua cũng đã được quan tâm với khoảng 27% có trình độ sơ cấp (3 tháng trở lên), với 19% trong nông nghiệp; Trung cấp chiếm khoảng 24% (tỷ lệ trong nông nghiệp 7%) và Đại học 4%.
Như vậy, về trình độ lao động của xã nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu trong thời kỳ đẩy mạnh Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa đất nước.
So với tiêu chí nông thôn mới chưa đạt.
13. Hình thức tổ chức sản xuất:
Hiện nay xã Tân Lập có 01 trạm bơm điện, 01 hợp tác xã dịch vụ sản xuất nông nghiệp, 02 tổ hợp tác dịch vụ thu hoạch lúa, 04 tổ bơm dề sạ dệt, 03 tổ giống. Tuy nhiên, các tổ nói trên hoạt động chưa có hiệu quả (trừ trạm bơm điện) do nguồn vốn hỗ trợ thấp không đáp ứng được nhu cầu hoạt động.
Lúa là cây truyền thống và chủ lực của xã, được sản xuất tập trung và thâm canh cao. Diện tích đất canh tác lúa 2.700 ha, (chiếm 85,1% đất nông nghiệp), trong đó đa phần là sản xuất 2 vụ, riêng khu vực trạm bơm điện năm 2011 nâng lên 3 vụ.
So với tiêu chí nông thôn mới: Đạt.
14. Giáo dục:
- Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp tiểu học đạt 98,6%, tỷ lệ học sinh tốt nghiệp THCS được tiếp tục học trung học (phổ thông, bổ túc, học nghề) đạt trên 97,9%, tỷ lệ lao động qua đào tạo mới chỉ đạt dưới 12%. Công tác phổ cập tiểu học, trung học cơ sở được công nhận đạt chuẩn.
So với tiêu chí nông thôn mới. Đạt 80%

15. Y tế:
- Xã có một trạm y tế với diện tích xây dựng 250m2, có 1 bác sĩ, 2 y sĩ, 01 dược sĩ, 5 giường bệnh, có một cơ sở điều trị đông y; ở các ấp đã có nhân viên y tế cộng đồng; trang thiết bị của trạm tương đối đầy đủ; đáp ứng được việc sơ cấp cứu ban đầu và phòng chống dịch bệnh.
- Trong thời gian qua xã đã chỉ đạo và thực hiện không ngừng đẩy mạnh vận động, tuyên truyền người dân tham gia các hình thức bảo hiểm. Tỷ lệ người dân tham gia các hình thức bảo hiểm y tế có 2.354 người, chiếm 29,34 %.
So với tiêu chí nông thôn mới, chưa đạt.
16. Văn hoá
Vận động thực hiện “toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” với tư tưởng chỉ đạo là “lấy sức dân xây dựng cuộc sống cho dân” trên cơ sở phát huy truyền thống đoàn kết dựa vào sức mạnh nội lực của cộng đồng khu dân cư, hiện nay có đến 95% hộ gia đình được công nhận gia đình văn hóa. Xã hiện có 4/6 ấp trong xã đã đạt tiêu chuẩn ấp văn hoá;
So với tiêu chí nông thôn mới. Đạt 66,66%:
17. Môi trường:
- Số hộ sử dụng nước sinh hoạt hợp vệ sinh là 1.734 hộ, đạt 100% với tổng số người sử dụng là 8024 người. Trong đó có 1117 hộ sử dụng nước mạch chiếm 64,4%
- Hiện nay xã hợp đồng thu gom xử lý rác thải, nhất là khu vực chợ cụm dân cư, chủ yếu là vận động nhân dân tự xử lý.
- Hệ thống thoát nước trong thôn xóm, nước mưa và nước thải sinh hoạt tự thấm là chính, phần còn lại thoát ra các tuyến kênh.
- Cơ sở sản xuất đạt tiêu chuẩn môi trường là 115/225 cơ sở.
- Nghĩa trang xã chưa có, hiện các hộ dân còn an táng phân tán theo các khu đất ở, các khu nghĩa địa tập trung theo họ tộc, tôn giáo.
- Các hoạt động bảo vệ môi trường: hàng năm diện tích trồng cây phân tán, trồng rừng phòng hộ tập trung đều được thực hiện tốt góp phần cải thiện môi trường tăng độ che phủ khoảng 22,5% so với diện tích đất tự nhiên; hiện trên địa bàn xã không có các hoạt động làm suy giảm môi trường.
So với tiêu chí nông thôn mới chưa đạt.



18. Hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh
- Đảng bộ có 109 đảng viên, 13 chi bộ trực thuộc, trong đó có 6 chi bộ ấp, 04 chi bộ khối cơ quan, 03 chi bộ ngành, hàng năm chi bộ đều được đảng bộ đánh giá đạt chi bộ trong sạch vững mạnh từ 70%-100%. Năm 2010 Đảng bộ được đánh giá đảng bộ hoàn thành tốt nhiệm vụ. Hệ thống chính trị ở xã được tăng cường; dân chủ cơ sở được phát huy; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo.
- Mặt trận tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội được kiện toàn đủ số lượng theo quy định, từ xã đến ấp đều có tổ chức hoạt động. Hiệu quả hoạt động ngày càng được nâng lên, vận động nhân dân thực hiện các chủ trương chính sách của đảng và pháp luật nhà nước. Các đoàn thể giúp đỡ hội viên lập dự án sản xuất, hướng dẫn nông dân thực hiện phát triển kinh tế gia đình, Hội nông dân phát động phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi đạt nhiều hiệu quả.
- Hội đồng nhân dân xã thể hiện được là cơ quan quyền lực cao nhất ở địa phương, đại diện được ý chí, tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, thường trực hội đồng nhân làm tốt các chương trình nghị sự, tiếp xúc cử tri, thực hiện tốt công tác giám sát.
- UBND xã quản lý điều hành đúng Luật tổ chức HĐND & UBND, phát huy tốt cơ quan thực thi pháp luật cấp cơ sở: có 05 Ủy viên Ủy ban nhân dân, Biên chế theo Nghị định 92 trong đó: cán bộ chuyên trách đủ chuẩn theo quy định 10/11 đ/c, công chức có 12/12 đ/c và 15/21 đ/c không chuyên trách, 7 đ/c CB Hội đặc thù. Đang đào tạo đại học: 13 đ/c (trong đó tự lực có 07 đ/c, đang học có 10 đ/c), Trung cấp: 21 đ/c (trong đó tự lực có 05 đ/c, đang học có 6 đ/c); được bố trí đúng ngành học và sở trường công tác của từng người. Hiện xã đang đào tạo nguồn 06 đ/c và hướng bố trí nhân sự đạt chuẩn theo quy định.
So với tiêu chí nông thôn mới. Đạt.
19. An ninh, trật tự xã hội:
- Tình hình an ninh trật tự - trật tự an toàn xã hội trên địa bàn xã: Luôn được giữ vững và ổn định. Đội ngũ làm công tác an ninh trật tự được biên chế tương đối đảm bảo đúng theo quy định, lực lương công an xã hiện có 10 cán bộ trong đó cán bộ thường trực tại cơ quan 04 cán bộ, 06 cán bộ công an viên phụ trách 06 ấp, ngoài ra còn có 18 thành viên đội dân phòng, 06 đội thanh niên xung kích gồm 45 người.
- Lực lượng công an thực hiện tốt các kế hoạch liên tịch với Mặt trận các đoàn thể, cùng các tổ chức chính trị xã hội thường xuyên giáo dục đoàn viên, hội viên không vi phạm pháp luật. Phương chăm phối hợp là tuyên truyền, giáo dục, đến từng nhà, rà từng đối tượng.
- Hệ thống chính trị hoạt động tốt mang lại hiệu quả thiết thực thông qua các phong trào ở địa phương. Mặt trận tổ quốc có phong trào thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, phong trào toàn dân thực hiện nếp sống văn hoá, xoá nhà tạm, nhà dột nát...; Hội nông dân thực hiện tốt 2 công tác 3 phong trào, trong đó phong trào nông dân sản xuất giỏi là trọng tâm, phong trào phát triển nông thôn mới, phong trào tham gia xây dựng gia đình văn hoá và ấp văn hoá; Hội phụ nữ có 6 chương trình trọng tâm: tăng cường công tác tuyên truyền tạo chuyển biến trong giáo dục phẩm chất đạo đức, nâng cao nhận thức trình độ năng lực phụ nữ đáp ứng yêu cầu tình hình mới, xây dựng người phụ nữ có sức khỏe, tri thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng động sáng tạo, có lối sống văn hóa, có lòng nhân hậu, giữ gìn bản sắc dân tộc; tham gia xây dựng phản biện xã hội và giám sát pháp luật chính sách về bình đẳng giới, hỗ trợ phụ nữ phát triển kinh tế, xây dựng gia đình no ấm bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc, xây dựng phát triển chi, tổ hội vững mạnh, đối ngoại nhân dân; Đoàn thanh niên có các phong trào lao động sáng tạo và phát triển kinh tế xã hội; vì cuộc sống cộng đồng; bảo vệ tổ quốc giữ gìn an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; cải cách hành chánh; hội nhập kinh tế quốc tế; cùng thanh niên học tập; khởi nghiệp và lập nghiệp; nâng cao sức khỏe thể chất và đời sống tinh thần, nâng cao kiến thức và kỹ năng hoạt động xã hội, xây dựng lớp thanh niên giàu lòng yêu nước có lối sống cao đẹp, có l‎ý tưởng cách mạng, có bản sắc văn hóa con người Việt Nam, thực hiện công tác giảm nghèo giải quyết việc làm trong đoàn viên thanh niên; Hội cựu chiến binh có các phong trào vận động giảm nghèo giải quyết việc làm, xét vay vốn và góp vốn giúp nhau làm kinh tế gia đình....
So với tiêu chí nông thôn mới, Đạt.















2.1.2 Các nhân tố ảnh hưởng việc phát triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn xã:
Qua quá trình nghiên cứu xét thấy địa phương còn khó khăn trong phát triển kinh tế hộ gia đình vì một số lý do như sau:
Nhân tố bên trong ( nhân tố chủ quan):
- Nguồn lao động dồi dào nhưng bên cạnh đó do trình độ sản xuất chuyên môn, kinh nghiệm, việc áp dụng khoa học kỹ thuật, phương tiện còn thấp, sản xuất nhỏ lẻ, còn dựa vào lao động cơ bắp là chủ yếu nên chưa nâng cao được hiệu quả sản xuất, năng xuất lao động, giá thành sản phẩm có cao nhưng không đủ đáp ứng thị trường.
- Chưa tranh thủ tốt các nguồn vốn từ Ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn, quỹ quốc gia hỗ trợ giải quyết việc làm, quỹ hỗ trợ nông dân, quỹ khuyến nông, và Các nguồn hỗ trợ vay vốn phát triển sản xuất cho các hộ đồng bào dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn theo quyết định 32/QĐ-TTg ngày 5/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ (Hộ có thu nhập dưới 60.000đ/ tháng/người, được vay tối đa 5 triệu đồng không phải thế chấp và trả lãi xuất).
- Hệ thống kết cấu hạ tầng của xã thiếu đồng bộ, chưa đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hạ tầng đô thị chưa phủ kín, hạ tầng xã hội chất lượng thấp, thiếu về số lượng, hiệu quả sử dụng chưa cao, chưa đáp ứng yêu cầu dịch vụ xã hội cơ bản, đặc biệt là về y tế, giáo dục. Hạ tầng thông tin phát triển nhưng việc quản lý, sử dụng chưa thật hiệu quả. Công tác quy hoạch, lộ trình đầu tư còn hạn chế, chưa kịp thời, chưa tập trung vào công trình trọng tâm. Công tác xã hội hóa huy động nguồn lực đầu tư kết cấu hạ tầng còn hạn chế. Còn một số công trình xây dựng chi phí cao nhưng chất lượng kém, còn lãng phí trong đầu tư xây dựng. Công tác đền bù, giải phóng mặt bằng chậm và gặp nhiều khó khăn…..
Nhân tố bên ngoài (nhân tố khách quan):
- Điều kiện cơ sở hạ tầng nông thôn ( đường xá, cầu cống, đê bao ngăn lũ,…) có xây dựng, sữa chữa, bảo trì thường xuyên nhưng chưa đủ đáp ứng tốt để tất cả mọi người dân được thuận tiện sản xuất. Đa số người dân sống ven sông, một số ít sống rải rát trên đồng,…Hạ tầng cơ sở có quan tâm đầu tư song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu, nhất là nước sạch và các chương trình quy hoạch xây dựng đê bao, thủy lợi nội đồng còn chậm...
- Điều kiện thời tiết, khí hậu có những diển biến phức tạp bất thường, tình hình thiên tai dịch bệnh xảy ra thường xuyên, trong sản xuất nông nghiệp tình hình sâu rầy, bệnh đạo ôn lá tiếp tục hoành hành, trong chăn nuôi tình hình dịch bệnh lỡ mồm long móng, dịch cúm A H5N1 và đặc biệt gần đây nhất là tình hình dịch bệnh cúm A H1N1, cúm A H7N9.
- Mặt khác, giá cả lương thực và các mặt hàng nông sản nói chung trong thời gian qua còn nhiều bấp bênh từ đó đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất, đời sống mà còn ít nhiều tạo tâm lý hoang mang trong nhân dân.
- Hợp tác sản xuất chưa rộng rải, sản xuất nhỏ lẻ là phổ biến, dẫn đến chưa đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ hàng hóa của địa phương, và đồng thời thị trường tiêu thụ ở địa phương là chủ yếu.
Giải quyết được những khó khăn, những nhân tố ảnh hưởng trên của nhân dân không những nâng cao đời sống kinh tế, mà nó còn cải thiện những vấn đề xã hội, đặc biệt là sự bình đẳng của các tầng lớp cư dân, nhất là cư dân nông thôn so với thành thị.
Khó khăn của người dân nói chung chịu tác động của nhiều yếu tố, với tính chất và mức độ khác nhau. Các yếu tố này có thể có sự tương tác lẫn nhau và tác động đến quá trình phát triển của xã hội. Vòng luần quẩn: nhiều khó khăn dẫn tới thu nhập thấp, thu nhập thấp dẫn tới đầu tư cho sản xuất, cho học hành của con cái những người nông dân đó thấp, vì đầu tư thấp dẫn tới kết quả sản xuất thấp và học tập thấp. Vì kết quả sản xuất thấp sẽ không đủ để trang trải các khoản chi phí cho đời sống, quá trình đầu tư tái sản xuất thấp, đầu tư thấp làm cho thu nhập thấp và học hành yếu kém làm cho chất lượng nguồn nhân lực thấp, dẫn tới hộ gia đình càng khó khăn, xã hội chậm phát triển. Bởi vậy công việc giải quyết các khó khăn của người dân đã được các địa phương quan tâm. Tuy nhiên, thực trạng xuất hiện: vừa xóa nghèo, nhưng cũng xuất hiện thêm người nghèo. Do đó, việc xoá nghèo phải làm thế nào để vừa đảm bảo giảm tỷ lệ hộ nghèo, vừa hạn chế mức thấp nhất số hộ nghèo tái xuất hiện. Trong thực tế, một số hộ gia đình đã thoát nghèo, nhưng theo thời gian, với những nguyên nhân thuộc về bên trong hộ gia đình (biến động nguồn lực lao động, tài sản, các quan hệ mâu thuẫn trong gia đình,…) hoặc do những nguyên nhân từ bên ngoài (rủi ro tự nhiên: hạn hán, lũ lụt, dịch bệnh,…hay những biến động môi trường sản xuất kinh doanh: biến động giá nông sản theo hướng giảm, chi phí đầu vào tăng cao,…v.v). những nguyên nhân này đã làm cho các hộ đã thoát nghèo lại trở lại tình cảnh đói nghèo.
Nguyên nhân chủ yếu:
- Tân Lập là xã vùng sâu, hạ tầng thấp, hàng năm đều bị ngập lũ, nên các trục đường giao thông bị hư hỏng nặng, các tuyến kênh mương bị bồi lắng, phải đầu tư nâng cấp, sữa chữa, nạo vét….hao tốn nhiều kinh phí.
- Xuất phát điểm về kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của xã còn thấp, yêu cầu đầu tư phát triển trên các lĩnh vực lớn nhưng nguồn vốn đầu tư có giới hạn, chủ yếu về ngân sách nhà nước, cơ chế huy động vốn ban đầu còn hạn chế, chưa huy động được nhiều nguồn lực xã hội tham gia……..
- Công tác quản lý nhà nước còn nhiều bất cập, phân cấp đầu tư chưa phù hợp; quản lý đầu tư, thực hiện quy hoạch chưa tốt; chưa thường xuyên kiểm tra, đôn đốc và xử lý các nhà thầu thực hiện chậm tiến độ. Chưa phát huy tốt vai trò giám sát của nhân dân trong quá trình xây dựng kết cấu hạ tầng…….Bên cạnh đó, một bộ phận nhân dân chưa đồng thuận đối với chính sách đền bù, hổ trợ của Nhà nước.
2.1.3 Chủ trương, đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước ta trong việc cụ thể hóa chương trình phát triển kinh tế hộ gia đình trên địa bàn xã:
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta :
1. Gia đình là tế bào của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại các tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc là một trong các mục tiêu quan trọng của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020, đồng thời cũng lá trách nhiệm của mọi gia đình trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
3. Ưu tiên, tạo điều kiện để các gia đình khu vực nông thôn, miền núi, khu vực khó khăn, đặc biệt khó khăn nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống.
Nhằm mục tiêu chung xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội:
Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính. Ưu điểm của kinh tế thị trường là phân bổ nguồn lực một cách hợp lý theo tín hiệu thị trường và do đó làm tăng hiệu quả chung của nền kinh tế. Kinh tế thị trường chỉ có thể được hoàn thiện khi các yếu tố, các loại thị trường được hình thành đồng bộ trong một môi trường cạnh tranh bình đẳng. Cạnh tranh là đặc tính vốn có của kinh tế thị trường. Thông qua cạnh tranh, các doanh nghiệp buộc phải tìm cách giảm chi phí, nâng cao năng suất - yếu tố xét đến cùng quyết định thắng lợi của một phương thức sản xuất, một chế độ xã hội. Kinh tế thị trường luôn được vận hành thông qua các thể chế và thủ tục hành chính. Vì vậy, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường phải gắn với đẩy mạnh cải cách hành chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Mặt khác, kinh tế thị trường mà chúng ta xây dựng là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó phát triển kinh tế phải kết hợp hài hoà với phát triển các lĩnh vực văn hoá xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển. Vì vậy, Nhà nước phải có chính sách cơ cấu hợp lý, sử dụng hiệu quả các công cụ điều tiết nhằm khắc phục những mặt trái của cơ chế thị trường.
Hai là, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Con người là chủ thể sản xuất ra mọi sản phẩm vật chất và tinh thần. Con người làm ra thể chế, phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, là lực lượng sản xuất quan trọng nhất. Vì vậy, đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân để phát triển mạnh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược. Đây vừa là yêu cầu cấp bách vừa là nhiệm vụ lâu dài. Đặt yêu cầu gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ là một nội dung mới, thể hiện tính hướng đích của phát triển nguồn nhân lực. Chỉ với nguồn nhân lực có khả năng phát triển và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất và quản lý mới tạo ra năng suất cao để phát triển nhanh và bền vững.
Ba là, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn. Kết cấu hạ tầng là “đường dẫn” cho các yếu tố sản xuất dịch chuyển và là điều kiện để phát triển văn hóa xã hội trên các vùng của đất nước. Sự yếu kém của kết cấu hạ tầng đang là cản trở lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội, làm tăng chi phí, giảm sức cạnh tranh, không phát huy được tác động hội tụ và lan tỏa của các yếu tố nội sinh, không khai thác được vị trí địa kinh tế nằm trong chuỗi cung toàn cầu của nước ta và là nguy cơ làm gia tăng chênh lệch về mức sống giữa các vùng của đất nước. Trong 10 năm tới, chúng ta phải huy động các nguồn lực để thực hiện khâu đột phá này

























2.1.4 Tình hình thực tế trên địa bàn xã Tân Lập,huyện Tân Thạnh, tỉnh Long An:
Qua tiến hành nghiên cứu trên địa bàn xã Tân Lập, nhận thấy một số kết quả như sau:
- Về phía chính quyền địa phương: nhiều chủ trương chính sách mới được ban hành kịp thời, phù hợp tạo được sự đồng thuận to lớn trong nhân dân. Nghị quyết của Đảng uỷ - HĐND sát với tình hình thực tế ở địa phương.
- Diện tích sản xuất lúa trong năm vượt so với kế hoạch. Sản xuất nông nghiệp tuy không thuận lợi về giá cả đầu ra, đồng thời chịu ảnh hưởng của thời tiết, dịch bênh… nhưng diện tích và sản lượng lúa đều vượt chi tiêu đề ra; Công tác ngăn chặn dịch bệnh trên gia súc, gia cầm có hiệu quả đời sống của nhân dân được cải thiện.
- Công tác chuyển giao khoa học kỹ thuật trong sản xuất được tổ chức thực hiện sâu rộng;
- Các công trình xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn được đầu tư kịp thời, chất lượng công trình đảm bảo.
- Chất lượng giáo dục từng được nâng lên, cơ sở vật chất trường lớp đảm bảo cho công tác dạy và học, Thực hiện kịp thời các chính sách an sinh xã hội. Các hoạt động thể dục, thể thao được chú trọng; đời sống văn hóa từng bước được nâng lên;
- Công tác cải cách hành chính trong cơ quan ngày càng đi vào nề nếp từ đó hiệu quả công việc cũng được nâng lên;
- Công tác chăm sóc sức khỏe khám và điều trị bệnh cho nhân dân được đảm bảo. Các chương trình y tế quốc gia được triển khai thực hiện nghiêm túc, tiếp tục duy trì và giữ vững đạt chuẩn quốc gia về y tế.
- Mối đoàn kết giữa chính quyền, mặt trận các đoàn thể và nhân dân ngày một khắn khích tạo sự đồng thuận thống nhất trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
Bên cạnh các vấn đề trên thì vẫn còn một số tồn tại trong thời gian qua chưa đạt được như:
- Năng suất lúa trong năm giảm so với năm 2012 do sâu bệnh, thời tiết mưa nhiều.
- Công tác chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi chưa được quy hoạch cụ thể, chưa tìm được đầu ra ổn định cho cây sen lấy ngó;
- Còn một số công trình xây dựng cơ bản đề nghị huyện đầu tư chưa triển khai kịp thời do khó khăn về nguồn vốn, công tác giải phóng mặt bằng còn gặp nhiều khó khăn nên chưa được thực hiện trong năm 2013 phải chuyển tiếp sang năm sau ảnh hưởng không ít đến đời sống sinh hoạt và sản xuất của nhân dân.
- Về phía hộ gia đình : Đặc thù huyện Tân Thạnh nói chung và xã Tân Lập nói riêng thuộc vùng Đồng tháp mười người dân sống chủ yếu bằng nghề nông, hộ gia đình được phân loại giàu và nghèo chênh lệch nhau rõ rệt, vì vậy cuộc sống thành phần giàu thì giàu thêm, thành phần nghèo phải đi làm thuê, làm mướn kiếm sống nên họ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Hàng ngày vẫn phải làm lụng vất vả ngoài đồng ruộng ngoài ra còn phải làm thêm việc như đánh bắt cá, làm thuê cho người khác,…..dẫn đến kinh tế hộ gia đình nông dân ở đây đa số người giàu có khắm khá không nhiều nhưng người khó khăn còn nhiều.
+ Đa số người nông dân chủ yếu lao động còn thô sơ, chưa áp dụng tốt khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp, kỹ thuật trồng sen lấy ngó chủ yếu dựa vào kinh nghiệm từ xưa nên chưa chủ động trong phòng trừ dịch bệnh,…..được sự quan tâm của chính quyền địa phương, người nông dân được tập huấn các chương trình hướng dẫn kỹ thuật mới trong trồng lúa nước, kỹ thuật trồng sen lấy ngó, lấy hạt, kỹ thuật nuôi ếch,…. Đồng thời Đoàn thanh niên cùng phối kết hợp với Hội liên hiệp thanh niên tổ chức dạy nghề miễn phí cho thanh niên địa phương kỹ thuật nuôi ếch và sửa chửa máy dầu,……




























2.2 Mục tiêu và giải pháp tăng cường sự phát triển kinh tế hộ gia đình.
Căn cứ quyết định số Số: 629/QĐ-TTg của thủ tướng chính phủ Phê duyệt Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn 2030 mục tiêu chung trong giai đoạn phát triển hiện nay là “xây dựng gia đình Việt Nam no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thực sự là tổ ấm của mỗi người, là tế bào lành mạnh của xã hội”. Ba mục tiêu cụ thể của chiến lược bao gồm:
Trước hết, nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, trách nhiệm của gia đình và cộng đồng trong việc thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống bạo lực gia đình (PCBLGĐ), ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình.
Với mục tiêu này, cấp chính quyền địa phương cần đầu tư nguồn lực để đạt các chỉ tiêu cơ bản như: Đến năm 2020, đạt 95% trở lên số hộ gia đình được phổ biến, tuyên truyền và cam kết thực hiện tốt chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật về hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, PCBLGĐ, ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào gia đình; 95% số nam, nữ thanh niên trước khi kết hôn được trang bị kiến thức cơ bản về gia đình, PCBLGĐ; hằng năm, trung bình giảm từ 10% - 15% số hộ gia đình có bạo lực gia đình, giảm 10% - 15% số hộ gia đình có người mắc tệ nạn xã hội, 15% số hộ gia đình có người kết hôn dưới tuổi pháp luật quy định (khu vực khó khăn và đặc biệt khó khăn giảm 10%).
Mục tiêu thứ hai là kế thừa, phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam; tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển; thực hiện đầy đủ các quyền và trách nhiệm của các thành viên trong gia đình, đặc biệt đối với trẻ em, người cao tuổi, phụ nữ có thai, nuôi con nhỏ. Các chỉ tiêu cụ thể cơ bản bao gồm: Đến năm 2020, đạt 85% trở lên (khu vực khó khăn và đặc biệt khó khăn đạt 75% trở lên) số hộ gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa; 95% số hộ gia đình dành thời gian chăm sóc, dạy bảo con, cháu, tạo điều kiện cho con, cháu phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, đạo đức và tinh thần, không phân biệt con, cháu là trai hay gái; đạt 95% số hộ gia đình thực hiện chăm sóc, phụng dưỡng chu đáo ông, bà, chăm sóc cha, mẹ, phụ nữ có thai, nuôi con nhỏ; đạt từ 98% trở lên số hộ gia đình có người trong độ tuổi sinh đẻ được tuyên truyền và thực hiện đúng chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, không phá thai vì giới tính của thai nhi.
Mục tiêu thứ ba là nâng cao năng lực của gia đình trong phát triển kinh tế, ứng phó với thiên tai và khủng hoảng kinh tế; tạo việc làm, tăng thu nhập và phúc lợi, đặc biệt đối với các hộ gia đình chính sách, hộ nghèo và cận nghèo theo quy định là mục tiêu thứ 3. Một số chỉ tiêu sau cần đạt vào năm 2020 như: 95% trở lên số hộ gia đình được cung cấp thông tin về chính sách, pháp luật phúc lợi xã hội dành cho các gia đình chính sách, gia đình nghèo; 95% trở lên số hộ gia đình nghèo, hộ cận nghèo được cung cấp kiến thức, kỹ năng để phát triển kinh tế gia đình, ứng phó với thiên tai, khủng hoảng kinh tế; hằng năm, tăng 10% số hộ gia đình, thành viên trong gia đình được thụ hưởng các dịch vụ y tế, văn hóa, giáo dục và dịch vụ hỗ trợ gia đình, hỗ trợ thành viên gia đình.
Giải pháp thực hiện
Để thực hiện thành công các mục tiêu của chiến lược trên, nhiều giải pháp cụ thể đã được đề ra. Sau đây là một số giải pháp chủ yếu:
Thứ nhất, đối với công tác lãnh đạo, tổ chức, quản lý, xác định công tác phát triển kinh tế gia đình là một nội dung quan trọng trong các kế hoạch, chương trình công tác thường xuyên của các cấp ủy Đảng, chính quyền. Các chỉ tiêu xây dựng, phát triển gia đình thuộc các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và của các địa phương; chú trọng công tác đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ. Việc huy động và sử dụng nguồn lực tài chính được hết sức chú trọng, ưu tiên nguồn lực cho vùng nông thôn, vùng nghèo, vùng miền núi còn nhiều tập tục lạc hậu, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Cùng với đó là công tác kiểm tra việc thi hành luật pháp chính sách...
Thứ hai, tăng cường công tác truyền thông vận động nhằm nâng cao nhận thức của các cấp, các ngành, gia đình và cộng đồng về vị trí, vai trò của gia đình trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; về chủ trương, luật pháp, chính sách của Đảng, Nhà nước liên quan đến gia đình; về quyền, trách nhiệm, nghĩa vụ của các gia đình, các cơ quan, những người thi hành công vụ liên quan đến gia đình để bảo đảm, thúc đẩy việc thực hiện chủ trương, luật pháp, chính sách của Đảng, Nhà nước liên quan đến gia đình.
Thứ ba là giải pháp giáo dục, cung cấp kiến thức về xây dựng gia đình như kỹ năng sống; trách nhiệm của nam giới đối với công việc trong gia đình, việc bảo đảm quyền của phụ nữ trong gia đình; trách nhiệm thực hiện nếp sống văn minh, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở; xây dựng tình làng nghĩa xóm, đoàn kết, giúp đỡ, nhắc nhở, động viên nhau thực hiện tốt chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước; cảnh báo các nguy cơ và hậu quả về mất cân bằng giới tính khi sinh...
Thứ tư là giải pháp thực hiện các chính sách, chương trình về an sinh xã hội. Hỗ trợ các gia đình, đặc biệt là các gia đình đồng bào dân tộc thiểu số, gia đình ở vùng sâu, vùng xa, vùng gặp nhiều khó khăn phát triển kinh tế, cải thiện đời sống. Thực hiện có hiệu quả Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững và Chương trình mục tiêu quốc gia việc làm và dạy nghề giai đoạn 2012 - 2015 và các năm tiếp theo.
Thứ năm là giải pháp xây dựng mạng lưới cung cấp dịch vụ gia đình. Kiện toàn và nâng cao chất lượng dịch vụ gia đình kết hợp với biện pháp quản lý, tác động cần thiết bảo đảm cho việc nâng cao chất lượng, phát huy hiệu quả của các dịch vụ.
Ngoài ra, tiếp tục đẩy mạnh xã hội hóa công tác gia đình. Các hoạt động hợp tác song phương, đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế, trong đó ưu tiên các hoạt động nghiên cứu, trao đổi kinh nghiệm, đào tạo về hoạch định chính sách, quản lý, kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, tuyên truyền, giáo dục và cung cấp dịch vụ có chất lượng cũng được hết sức quan tâm./.
2.2.1 Mục tiêu ở địa phương:
Xây dựng Tân Lập trở thành xã nông thôn mới trong thời kỳ Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa thể hiện các đặc trưng: Kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân nông thôn được nâng cao; kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội hiện đại, các hình thức sản xuất phù hợp, gắn phát triển nông nghiệp với phát triển công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch, xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc dân tộc, mặt bằng dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ và cải thiện...
- Kinh tế, xã hội: giảm nghèo bền vững, thu hẹp khoảng cách phân hóa giàu nghèo, từng bước nâng cao đời sống bộ phận dân cư nghèo trên mọi mặt: cải thiện kinh tế, hưởng thụ đời sống văn hóa, tinh thần; được chăm sóc y tế tốt hơn và hưởng thụ điều kiện giáo dục ngày một tốt hơn.
Là một xã có nền kinh tế còn thấp trình độ dân trí chưa đồng đều giữa các vùng, chất lượng nguồn nhân lực, năng lực của đội ngũ cán bộ công chức chưa theo kịp yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Hoạt động chính trị giữa các ấp chưa thật sự nổi bật. Đó là những thách thức lớn mục tiêu lớn đòi hỏi Đảng bộ huyện Tân Thạnh, đảng ủy xã Tân Lập và nhân dân của xã Tân Lập phải ra sức phấn đấu vượt qua mọi khó khăn thách thức để thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của nghị quyết đại hội Đảng bộ xã :
1. Về phát triển kinh tế:
- Tập trung phát triển kinh tế nông nghiệp sản xuất lúa hàng hóa là chủ lực, quan tâm đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng nông nghiệp nông thôn, kết hợp phát triển thương mại dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp tăng thu nhập nâng cao cuộc sống nhân dân.
- Nâng cao hiệu quả đầu tư xây dựng cơ bản, tập trung đầu tư các công trình đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp- nông thôn.
- Tăng cường công tác huy động ngân sách, thực hiện việc thu chi ngân sách đúng quy định.
-Củng cố, phát triển kinh tế tập thể, khuyến khích mở rộng kinh tế tư nhân.
- Tăng cường lãnh đạo công tác quản lý đất đai đảm bảo đúng theo quy hoạch đã được duyệt và đúng theo các quy định của luật đất đai.
2. Phát triển văn hóa xã hội:
-Tập trung nâng cao chất lượng dạy và học xây dựng kỷ cương, nề nếp trong nhà trường vận động xã hội hóa công tác giáo dục. Tranh thủ các nguồn lực thực hiện kiên cố hóa trường lớp kết hợp xây dựng trường chuẩn, quan tâm lãnh đạo công tác khuyến học khuyến tài, xây dựng xã hội học tập. Tiếp tục thực hiện công tác phổ cập giáo dục trung học, hạn chế thấp nhất tình trạng học sinh bỏ học. Củng cố phát triển trung tâm học tập cộng đồng.
-Thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia, công tác khám chữa bệnh cho nhân dân nhất là các đối tượng chính sách, bệnh nhân nghèo. Triển khai có hiệu quả công tác phòng chống dịch bệnh; quan tâm đầu tư xây dựng cơ sở vật chất trang thiết bị, đảm bảo đầy đủ các loại thuốc phục vụ công tác điều trị bệnh phấn đấu xây dựng xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Quản lý chặt chẽ các loại hình dịch vụ, y tế tư nhân, đẩy mạnh công tác dân số kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc trẻ em, giảm tỷ lệ tăng dân số, tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng đạt chỉ tiêu nghị quyết đề ra.
-Thực hiện tốt công tác xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư; công tác truyền thanh, phong trào văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao. Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng nếp sống văn minh gia đình văn hóa, cơ quan văn hóa, phấn đấu đến cuối nhiệm kỳ có trên 95% hộ gia đình văn hóa đạt chuẩn, nâng cao chất lượng cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, xây dựng ấp văn hóa, phấn đấu đến cuối nhiệm kỳ toàn xã có 6 ấp văn hóa. Không ngừng nâng cao chất lượng hệ thống hoạt động trạm truyền thanh xã ấp đảm bảo thông tin thông suốt nhằm thực hiện tốt các nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Đẩy mạnh phát triển các phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao… kiến nghị quy hoạch xây dựng khu văn hóa-thể thao, phục vụ tốt nhu cầu vui chơi giải trí của các tầng lớp nhân dân trong xã.
-Thực hiện tốt công tác chính sách xã hội, công tác giảm nghèo-giải quyết việc làm. Chú trọng công tác giảm nghèo, quan tâm chỉ đạo, phối kết hợp chặt chẽ với các ban ngành cấp trên, ngân hàng CSXH triển khai các dự án giảm nghèo giải quyết việc làm, đào tạo nghề tạo điều kiện cho người nghèo có việc làm ổn định cuộc sống. Xây dựng thực hiện tốt các chính sách xã hội, xây dựng nhà tình nghĩa, nhà tình thương giải quyết kịp thời các chế độ chính sách cho các đối tượng, duy trì công tác cứu trợ xã hội, bảo hiểm y tế đối với người nghèo.
3. Công tác quốc phòng- an ninh:
-Triển khai quán triệt tổ chức thực hiện tốt các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về quốc phòng-an ninh, tập trung xây dựng vững chắc thế trận an ninh nhân dân kết hợp với thế trận quốc phòng toàn dân, tiếp tục duy trì công tác phối hợp với các xã bạn tăng cường ở các tuyến giáp ranh, phát triển nhân rộng các mô hình phòng chống tội phạm có hiệu quả.
-Tập trung xây dựng cũng cố lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên đủ về số lượng và chất lượng, sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống, hoàn thành 100% chỉ tiêu gọi thanh niên nhập ngũ hàng năm. Đề cao cảnh giác, chủ động phòng chống âm mưu “Diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm trật tự xã hội, duy trì và ngày càng phát triển mạnh phong trào quần chúng bảo vệ an ninh tổ quốc, xây dựng địa bàn trong sạch vững mạnh, không có tội phạm và tệ nạn xã hội.
-Thực hiện tốt chiến lược cải cách tư pháp theo nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về củng cố, kiện toàn ban tư pháp, tăng cường công tác hòa giải, giải quyết các đơn thưa khiếu nại tố cáo của công dân ngay tại cơ sở.


































2.2.2 Giải pháp mà hộ gia đình cần thực hiện để phát triển kinh tế hộ như sau:
1. Phát huy các mặt tích cực canh tác truyền thống, các phong tục tập quán địa phương, dân tộc như: Kinh nghiệm sản xuất, cách khắc phục các tác động khắc nghiệt của thiên nhiên. Các giông cây, con (giống bản địa) được chọn lọc tự nhiên có tính thích nghi cao ( như cây sen, cây tràm,…), trong nên kinh tế hàng hóa, nhiêu giống trở thành đặc sản, có giá trị hàng hóa cao nếu biết khai thác các tiềm năng của chúng, tính cộng đồng trách nhiệm, tính tự giác, công bằng trong chia xẻ các nguồn lợi thiên nhiên, biêt yêu quý môi trường gắn bó với sinh hoạt, cuộc sống của mình, trung thành, kiên định làm theo những gì tin là đúng, hiểu là tốt đẹp, tính bản sắc và tự trọng dân tộc cao, không chấp nhận cái xấu, độc ác...
2. Tham gia các hoạt động khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư và khuyến công, tham dự các tập huấn, bồi dưỡng kiến thức khoa học, kỹ thuật, thông tin thị trường, giá cả. Nghe hướng dẫn chăn nuôi, trông trọt, bảo quản, chế biến nông lâm thủy hải sản… bổ sung các kiến thức kinh nghiệm quản lý kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn, đi tham quan khảo sát học tâp kinh nghiệm saẻn xuất trong và ngoài địa phương. Tham gia xây dựng mô hình trình diễn về ứng dụng các tiến bộ khoa học - công nghệ trong sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp.
3. Học tập và làm theo các mô hình sản xuất thích hợp: như mô hình chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất của trồng trọt ( cây lúa nước, cây sen,…), chăn nuôi (trâu, bò, heo, gà và đặc biệt là nuôi vịt rất phù hợp với điều kiện sông nước của địa phương), thủy sản (cá lốc giống, cá rô phi,…), chế biên nông, lâm, thủy sản. Mô hình sản xuất gắn với chế biến , bảo quản và tiêu thụ sản phẩm nông lâm, thủy sản. Mô hình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn (VAC, VCR, VARC...), mô hình nông lâm kêt hợp...
4. Tích cực, chủ động tìm nguồn vốn, vật tư sản xuất (vốn vay ưu đãi và các nguồn vốn tín dụng...) đầu tư, phục vụ phát triển sản xuất, chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, nghề truyền thống, giống vật nuôi: đại gia súc, tiểu gia súc, gia cầm, thủy sản, giống cây trông: Cây lương thực, cây lâm nghiệp, cây ăn quả và cây dược lieu… có năng xuất chất lượng phù hợp với điều kiện của địa phương. Phân hóa học, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật và các vật tư khác. Liên doanh, liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
5. Mạnh dạn mua sắm trang thiết bị máy móc công cụ chế biến, bảo quản sản phẩm sau thu hoạch như: máy sấy, công cụ, trang thiết bị phục vụ bảo quản, chế biến nông, lâm, ngư nghiệp.
Thực hiện tốt các giải pháp phát triển kinh tế hộ gia đình trên sẽ đem lại ích lợi là thay đổi được thói quen, tập quán canh tác cũ, lạc hậu, năng xuất thấp, giúp hộ gia đình xóa đói giảm nghèo và từng bước vươn lên đủ ăn, trở thành hộ khá và giàu, góp phần xây dựng quê hương, đất nước giàu mạnh.

* Kiến nghị :
Đề nghị các cấp có thẩm quyền quan tâm hơn nữa với công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn, góp phần nâng cao tay nghề tạo việc làm tăng thêm thu nhập hộ gia đình.
Mở rộng hệ thống đường nông thôn trong toàn xã, liên xã, liên ấp để tạo điều kiện cho người dân đi lại, giao thông thông thương trao đổi mua bán hàng hóa tăng, cả ngành dịch vụ và phi nông nghiệp.
Nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng như trường học, trạm y tế .
Về môi trường: nâng cấp đội ngũ xe chở rác và đội ngũ nhân viên môi trường, xây dựng hệ thống xử lý nước sạch hợp vệ sinh.
Nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ xã về chính trị, nghiệp vụ công tác ….
Tạo điều kiện cho cán bộ nâng cao trình độ bằng nguồn ngân sách của xã hoặc cho cán bộ quỹ thời gian để cá nhân người cán bộ tự lực đi học để hoàn thiện bản thân góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị đề ra.
















KẾT LUẬN
Phát triển kinh tế nói chung và phát triển kinh tế gia đình nói riêng vẫn là vấn đề rất bức thiết của nền kinh tế nước Việt Nam và cả thế giới.Đã từ rất xa xưa con người đã biết phát triển kinh tế là điều rất quan trọng nó quyết định đến vận mệnh của một quốc gia và cả thế giới trong đó một đất nước muốn phát triển vững mạnh cần chú trọng đến phát triển kinh tế hộ gia đình, vì đây là nhân tố quyết định đến sự phát triển của một quốc gia.
Kinh tế gia đình thật sự là điều rất quan trọng cho sự phát triển của đất nước vì vậy Đảng và Nhà nước cần quan tâm nhiều hơn nữa cho nền kinh tế ngày càng phát triển mạnh mẻ hơn,đặt biệt là chú trọng đến kinh tế của từng địa phương kém phát triển và thúc đẩy các địa phương đang phát triển hơn nữa.Từ đó địa phương có những định hướng sâu sắc cho nền kinh tế cho địa phương mình và tìm ra các thế mạnh của địa phương để làm cho nền kinh tế phát triển hơn, điều quan trọng là thị trấn cần chú trọng mạnh mẻ hơn về nền kinh trong từng hộ gia đình và nâng cao năng lực của từng cá nhân trong gia đình.
Đảng bộ xã biết kết hợp tư tưởng HỒ CHÍ MINH và chủ nghĩa MÁC LÊ - NIN và sự lãnh đạo của Đảng bộ TW để có phương hướng lãnh đạo cho phù hợp việc phát triển kinh tế nói chung và phát triển kinh tế hộ gia đình nói riêng ở địa phương của mình.Bên cạnh đó cũng cần có sự hiểu biết sâu sắc của người dân về sự lãnh đạo của Đảng, chủ trương của Nhà nước vào sự nghiệp phát triễn kinh tế nước ta hiện nay.
Xã Tân Lập là một xã có điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển nông, lâm, ngư nghiệp, du lịch sinh thái và các loại hình dịch vụ trong tương lai.
Việc đánh giá đúng và quy hoạch chung xã Tân Lập sẽ góp phần thúc đẩy kinh tế, đảm bảo an ninh xã hội của địa phương. Nâng cấp hạ tầng sẽ góp phần thúc đẩy phát triển các dịch vụ khác. Đồng thời đưa ra các dự án ưu tiên đầu tư cụ thể làm cơ sở từng bước đầu tư xây dựng, tạo bộ mặt cảnh quan cho khu vực, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân nông thôn với điều kiện tiện nghi giảm dần khoảng cách với cuộc sống đô thị nhưng vẫn đảm bảo phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường hướng tới sự phát triển có tính bền vững.
Phát triển kinh tế hộ gia đình hiện nay thực sự trở thành nền kinh tế quan trọng cho nền phát triển kinh tế đất nước trong thời kỳ đổi mới hiện nay,vì vậy cần quan tâm nhiều hơn nữa của các cơ quan ban nghành cơ quan nhà nước đến sự phát triển của địa phương trong giai đoạn đổi mới của nước ta hiện nay.






TÀI LIỆU THAM KHẢO
* Giáo trình trung cấp lý luận chính trị (những nguyên cứu cơ bản của triết học Mác Lênin) nhà xuất bản lý luận chính trị Hà Nội năm 2008
* Giáo trình kinh tế chính trị Mác - Lênin
* Tài liệu nguyên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh
* Báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ nhiệm kỳ 2005 – 2010 và phương hướng, nhiệm vụ nhiệm kỳ 2011 – 2015 của Đảng ủy xã Tân Lập, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long an.
* Vai trò của thanh niên phát triển kinh tế - xã hội
* Qua đi thực tế nghiên cứu và tiềm hiểu của cá nhân về điều kiện phát triển kinh tế của xã Tân Lập, huyện Tân Thạnh, tỉnh Long an.


BÀI VIẾT NÀY TÔI VỪA MỚI HOÀN THÀNH. MONG ĐƯỢ SỰ GÓP Ý CỦA CÁC BẠN

Trả Lời Với Trích Dẫn