View Single Post
  #1  
Old 04-13-2012, 09:30 PM
rangthuahehe rangthuahehe is offline
Senior Member
 
Tham gia: Feb 2012
Tổng số bài gởi: 4,709


Phân tích hiệu quả tài chính dự án đầu tư

1.1 ĐẦU TƯ

1.1.1 Khái niệm

- Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn, lao động, nguyên liệu, đất đai,… nói chung là sử dụng tài nguyên cho mục đích sản xuất – kinh doanh, mở rộng cơ sở vật chất kỹ thuật, phát triển kinh tế nói chung của một ngành, một lĩnh vực, một địa phương,… nhằm thu về sản phẩm, lợi nhuận và các lợi ích kinh tế xã hội khác.

Hay nói cách khác: đầu tư là hoạt động sử dụng tài nguyên cho mục đích sản xuất -kinh doanh hoặc sinh lợi.

1.1.2 Đặc điểm

Hoạt động đầu tư có những đặc điểm chính sau:

- Trước hết phải có vốn. Vốn có thể bằng tiền, bằng các loại tài sản khác như máy móc, thiết bị, nhà xưởng, công trình xây dựng khác, giá trị quyền sở hữu công nghiệp, bí quyết kỹ thuật, quy trình công nghệ, dịch vụ kỹ thuật, giá trị quyền sử dụng đất, mặt nước, mặt biển, các nguồn tài nguyên khác. Vốn đầu tư có thể là vốn Nhà nước, vốn tư nhân, vốn góp, vốn cổ phần, vốn vay dài hạn, trung hạn, ngắn hạn.

- Hoạt động đầu tư (kể từ khi bắt đầu khởi sự đến khi dự án mang lại hiệu quả) thường diễn ra trong một thời gian tương đối dài, trong nhiều năm, thường từ 2 năm trở lên, có thể lên đến 50 năm, nhưng tối đa cũng không quá 70 năm. Những hoạt động ngắn hạn, thường trong vòng 1 năm tài chính không được gọi là đầu tư. Thời hạn đầu tư được ghi rõ trong Quyết định đầu tư hoặc Giấy phép đầu tư, còn được gọi là đời sống của dự án.

- Lợi ích do dự án mang lại được biểu hiện trên hai mặt: lợi ích tài chính (biểu hiện qua lợi nhuận) và lợi ích kinh tế xã hội (biểu hiện qua các chỉ tiêu kinh tế xã hội). Lợi ích kinh tế xã hội thường được gọi tắt là lợi ích kinh tế. Lợi ích tài chính ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của chủ đầu tư, còn lợi ích kinh tế ảnh hưởng đến quyền lợi của cả cộng đồng.

Dựa vào lợi ích tài chính, nhà đầu tư, kể cả trường hợp nhà đầu tư là Nhà nước, có thể ra được quyết định có đầu tư hay không. Dựa vào lợi ích kinh tế xã hội, Nhà nước sẽ ra được quyết định có cấp giấy phép đầu tư cho các nhà đầu tư không phải là Nhà nước hay không.

1.1.3 Phân loại đầu tư

Hoạt động đầu tư có thể được phân loại một cách tương đối: theo lĩnh vực hoạt động, theo mức độ đầu tư, theo thời gian hoạt động và theo tính chất quản lý.

1.1.3.1 Theo lĩnh vực hoạt động: 3 nhóm

- Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật (điện, nước, GTVT, thông tin liên lạc…). Đầu tư cơ sở hạ tầng tạo tiền đề phát triển sản xuất kinh doanh (tạo ra sự ra đời các xí nghiệp mới, quy mô sản xuất được mở rộng)

- Đầu tư phát triển sản xuất – kinh doanh (đầu tư thêm dây chuyền công nghệ để tăng cường năng lực sản xuất, đầu tư bổ sung trang thiết bị hiện đại…). Đầu tư cho sản xuất kinh doanh sẽ tạo năng lực mới, sản xuất phát triển có thêm tiềm lực kinh tế để giúp phát triển trở lại cho cơ sở hạ tầng.

- Đầu tư phát triển các hoạt động lĩnh vực văn hóa – xã hội – môi trường (đầu tư các dự án trùng tu các di sản văn hóa, lịch sử…) Đầu tư vào văn hóa xã hội sẽ nâng cao học vấn, dân trí, phát triển khoa học kỹ thuật giúp phát triển trở lại cho sản xuất.

1.1.3.2 Theo mức độ đầu tư

- Đầu tư cải tạo mở rộng: nhằm tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cao hơn trên cơ sở đầu tư cũ đã có (như mở rộng thêm mặt bằng mua sắm bổ sung thêm máy móc thiết bị, cải tiến dây chuyền công nghệ…Kết quả của đầu tư này là nhằm nâng cao thêm năng lực và hiệu quả sản xuất. Trường hợp này còn gọi là đầu tư chiều sâu.

- Đầu tư xây dựng mới: được tiến hành với quy mô lớn, toàn diện. Trong đó việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ mới được quan tâm và sử dụng tối đa.

So sánh 2 dạng đầu tư này: đầu tư xây dựng mới lớn hơn về quy mô, dài hơn về thời gian thực hiện; kỹ thuật công nghệ mới được sử dụng triệt để và vốn đầu tư thường rất lớn. Trong khi đó: đầu tư cải tạo mở rộng thường tận dụng các nền tảng kỹ thuật cũ hiện có và vốn đầu tư không lớn.



1.1.3.3 Theo thời hạn hoạt động

- Đầu tư ngắn hạn: là những đầu tư nhằm vào các yếu tố và mục tiêu trước mắt, thời gian hoạt động và phát huy tác dụng thường ngắn, trong khoảng từ 2 đến 5 năm.

Trong đầu tư ngắn hạn, huy động kỹ thuật và vật chất không lớn. Tuy nhiên, đòi hỏi của đầu tư ngắn hạn phải đảm bảo các yếu tố để thu hồi vốn nhanh, phải hoàn thành công trình sớm và sớm đưa vào khai thác, thị trường sẵn sàng và sản phẩm được tiêu thụ nhanh nhạy.

- Đầu tư trung hạn và dài hạn: là những đầu tư đòi hỏi nhiều về vốn đầu tư và lâu dài về thời gian phát huy tác dụng, thường trên 5-10-15-20 năm hoặc có khi còn lâu hơn.

1.1.3.4 Theo tính chất quản lý

- Đầu tư trực tiếp: là đầu tư mà trong đó chủ đầu tư vừa bỏ vốn, vừa trực tiếp tham gia quản lý, điều hành. Thực chất trong đầu tư trực tiếp, người bỏ vốn và nhà quản lý sử dụng vốn là một chủ thể.

+ Do người bỏ vốn và nhà quản trị sử dụng vốn là một chủ thể, nên chính chủ thể này hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả đầu tư của chính mình.

+ Kết quả đầu tư có thể lãi hoặc lỗ. Có nghĩa là, khi đầu tư trực tiếp, người bỏ vốn, đồng thời là nhà quản trị sử dụng vốn, chấp nhận nguyên tắc “Lời ăn – Lỗ chịu”.

+ Trong đầu tư trực tiếp có đầu tư trực tiếp trong nước và đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI – Foreign Direct Investment).

- Đầu tư gián tiếp: ở đây chủ đầu tư chỉ đóng vai trò góp vốn mà không tham gia quản lý, điều hành. Dạng này thường thấy ở lĩnh vực đầu tư tài chính, như: viện trợ không hoàn lại hoặc có hoàn lại với lãi suất thấp của các chính phủ. Thực chất trong đầu tư gián tiếp, người bỏ vốn (nhà đầu tư) và nhà quản trị sử dụng vốn là khác chủ thể.

1.1.4 Mục tiêu đầu tư

Mục tiêu đầu tư thể hiện những mục đích lâu dài mà Chủ đầu tư cần đạt được.

Mục tiêu đầu tư cần được xem xét theo hai giác độ: giác độ của Nhà nước và giác độ của doanh nghiệp

1.1.4.1 Mục tiêu đầu tư của Nhà nước

Ÿ Những dự án đầu tư của Nhà nước thường nhằm vào các mục tiêu sau:

- Đảm bảo cho phúc lợi công cộng dài hạn, như đầu tư cho các cơ sở nghiên cứu khoa học – công nghệ, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ phát triển kinh tế đất nước hoặc khu vực, đầu tư các công trình thuộc các lĩnh vực văn hóa, giáo dục và đào tạo, y tế, thể thao, nghệ thuật…

- Đảm bảo sự phát triển kỹ thuật, kinh tế chung dài hạn của đất nước: đầu tư cho các công trình nghiên cứu khoa học và công nghệ có tính chất chiến lược, các công trình cơ sở hạ tầng kỹ thuật và kinh tế quan trọng, các công trình công nghiệp trọng điểm có tác dụng đòn bẩy đối với nền kinh tế quốc dân…

- Đảm bảo yêu cầu về quốc phòng và an ninh cho Tổ quốc.

- Đảm bảo các yêu cầu về bảo vệ môi trường, bảo vệ tài nguyên cho đất nước.

- Đảm bảo vị trí kinh tế của đất nước trên trường quốc tế.

- Đầu tư vào các lĩnh vực mà các doanh nghiệp Nhà nước riêng lẻ, các doanh nghiệp tư nhân không thể đầu tư do nhiều nguyên nhân khác nhau: vốn lớn, độ rủi ro, mạo hiểm cao mà mà các lĩnh vực này có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển kinh tế đất nước và đời sống của nhân dân.

Nhìn chung, theo góc độ quốc gia, đầu tư từ ngân sách nhằm vào hai mục tiêu chính là:

- Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đất nước nhằm tăng thu nhập quốc dân

- Cải thiện việc phân phối thu nhập quốc dân nhằm đạt được mục tiêu công bằng xã hội.

1.1.4.2 Mục tiêu đầu tư của doanh nghiệp

Mục tiêu đầu tư của doanh nghiệp phải xuất phát từ nhu cầu của thị trường, từ khả năng chủ quan và ý đồ chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, từ đường lối phát triển chung của đất nước và các cơ sở pháp luật.

Các dự án đầu tư của doanh nghiệp nhằm vào mục tiêu chính sau đây:

Ÿ Cực đại lợi nhuận hoặc cực tiểu chi phí.

Có thể nói mục tiêu cực đại lợi nhuận được coi là mục tiêu quan trọng và phổ biến nhất đối với doanh nghiệp.

Tuy nhiên khi sử dụng mục tiêu này đòi hỏi phải đảm bảo tính chắc chắn của các chỉ tiêu lợi nhuận thu được theo dự kiến của dự án đầu tư qua các năm. Yêu cầu này trong thực tế gặp nhiều khó khăn khi thực hiện, vì tình hình của thị trường luôn luôn biến động và việc dự báo chính xác về lợi nhuận cho hàng chục năm sau là rất khó khăn.

Ÿ Cực đại khối lượng hàng hóa sản xuất và bán ra trên thị trường của doanh nghiệp.

Mục tiêu này thường được dùng khi các yếu tố tính toán theo mục tiêu lợi nhuận không được đảm bảo chắc chắn. Tuy nhiên mục tiêu này cũng phải có mục đích cuối cùng là thu được lợi nhuận tối đa theo con đường cực đại hóa khối lượng hàng hóa bán ra trên thị trường, vì mức lợi nhuận tính cho một sản phẩm có thể thấp, nhưng do khối lượng sản phẩm bán ra trên thị trường lớn, nên tổng lợi nhuận thu được cũng sẽ lớn. Vấn đề còn lại ở đây là doanh nghiệp phải đảm bảo mức doanh lợi của đồng vốn phải đạt mức yêu cầu tối thiểu.

Ÿ Cực đại giá trị tài sản của các cổ đông tham gia vào dự án đầu tư được tính theo giá thị trường.

Trong kinh doanh có hai vấn đề cơ bản được các nhà kinh doanh luôn luôn quan tâm đó là lợi nhuận dài hạn và sự ổn định của kinh doanh, ở đây sự ổn định luôn luôn gắn liền với mức độ rủi ro. Hai mục tiêu này trong thực tế thường mâu thuẫn với nhau, vì muốn thu được lợi nhuận càng lớn thì càng phải chấp nhận mức rủi ro càng cao, tức là mức ổn định càng thấp.

Để giải quyết mâu thuẫn này các nhà kinh doanh đã áp dụng mục tiêu kinh doanh “Cực đại giá trị tài sản của các cổ đông tính theo giá trên thị trường” hay là cực đại giá trị trên thị trường của các cổ phiếu hiện có, vì giá trị của một cổ phiếu ở một công ty nào đó trên thị trường phản ánh không những mức độ lợi nhuận mà còn mức độ rủi ro hay ổn định của các hoạt động kinh doanh của các công ty. Vì vậy thông qua giá trị cổ phiếu trên thị trường có thể phối hợp hai mục tiêu lợi nhuận và rủi ro thành một đại lượng để phân tích phương án kinh doanh, trong đó có cả dự án đầu tư.

Ÿ Đạt được mức thỏa mãn nào đó về hiệu quả tài chính của dự án.

Ÿ Duy trì sự tồn tại của doanh nghiệp trong tình hình cạnh tranh hay phục hồi doanh nghiệp để doanh nghiệp thoát ra khỏi nguy cơ suy thoái.

Bên cạnh mục tiêu lợi nhuận cực đại trong thực tế còn tồn tại một mục tiêu thứ hai không kém phần quan trọng, đó là duy trì sự tồn tại lâu dài và an toàn cho doanh nghiệp hay dự án đầu tư. Trong trường hợp này các nhà kinh doanh chủ trương đạt được một mức độ thỏa mãn nào đó của doanh nghiệp về lợi nhuận, nhưng đảm bảo được sự tồn tại lâu dài và an toàn cho doanh nghiệp còn hơn là chạy theo lợi nhuận cực đại nhưng có nhiều nguy cơ rủi ro và phá sản. Quan điểm này có thể được áp dụng để phân tích và quyết định một dự án đầu tư.

Ÿ Đầu tư để nâng cao chất lượng sản phẩm và uy tín phục vụ đối với khách hàng và khả năng cạnh tranh để mở rộng thị trường tiêu thụ, chiếm lĩnh thị trường nhiều hơn, nhất là trong xu thế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.

Ÿ Đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm hoặc mở rộng thị trường tiêu thụ, đón đầu nhu cầu mới sẽ xuất hiện trên thị trường, tăng thêm độc quyền doanh nghiệp.

Ÿ Đầu tư để liên doanh với nước ngoài nhằm tranh thủ công nghệ mới và mở rộng thị trường xuất khẩu.

Ÿ Đầu tư để cải thiện điều kiện lao động của doanh nghiệp, bảo đảm yêu cầu bảo vệ môi trường theo yêu cầu của pháp luật



Download và Xem Tài Liệu đầy đủ :

phan_tich_hieu_qua_tai_chinh_du_an_dau_tu

Trả Lời Với Trích Dẫn